249- KINH DI ĐÀ DO ĐỜI SAU THÊU DỆT
(30:21) Hôm
nay tiếp tục bài giảng, thì vừa rồi, khi mà Thầy giảng xong bài giảng thì cũng
có một vài ý kiến, do đó thì hôm nay Thầy xin trả lời ý kiến trước để cho nó thấu
suốt bài giảng vừa rồi, rồi chúng ta sẽ tiếp tục tới bài giảng kế.
Thì đây có một
vị thầy hỏi Thầy:
“Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch
Thầy hoan hỷ, bố thí cho con thưa hỏi!
Như buổi
thuyết giảng hôm qua đó, Thầy giảng về lý và sự quy y Tam Bảo, có đoạn hóa tướng
Tam Bảo. Thưa Thầy, chỗ hóa tướng Tam Bảo Thầy chỉ Đức Phật giáo chủ Bổn sư
Thích Ca Mâu Ni hiện tại thuyết pháp độ sanh.
Vậy trong
kinh Di Đà, Đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni tại hội thuyết ở nước Xá Vệ trong vườn
của trưởng giả Cấp Cô Độc, kinh văn có đoạn Ngài bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Từ
đây sang phía tây, trải qua hơn mười vạn ức Phật độ, có một thế giới tên gọi là
Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đang nói pháp.”
Thưa Thầy,
Đức giáo chủ Thích Ca Ngài nói ra kinh này là ý chỉ giáo pháp gì? Và tại sao lại
sinh ra pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc quốc? Cúi xin Thầy chỉ giáo
cho con!”
Đó là câu hỏi.
Bởi vì Thầy
giảng ở trong bài giảng đó, thì chỉ - Thầy biết rằng theo giáo lý của Đức Phật
đó, một tôn giáo thì có một đức giáo chủ chớ không thể có nhiều giáo chủ.
Cho nên hầu
hết là chúng ta cũng nhìn thấy ở trên cái hành tinh chúng ta có nhiều tôn giáo,
nhưng mà mỗi tôn giáo đều có một đức giáo chủ chớ không có hai, ba giáo chủ.
Do vì vậy đạo
Phật thì chúng ta cũng biết rằng chỉ có từ Đức Thích Ca mà thôi. Nhưng vì sau
này, mình phải xác định như thế này nè: Sau này người ta thêm thắt ra, rồi người
ta ở trong cái tư tưởng nào mà người ta thêm thắt ra.
Như thí dụ
như trong kinh Di Đà thì Đức Phật không phải là giới thiệu có một cái đức Phật
A Di Đà là một giáo chủ của cõi Tây Phương, mà trong đó Đức Phật còn giới thiệu
bốn phương, rồi phương trên, phương dưới đều có những cái đức Phật là giáo chủ
mỗi phương hết.
(33:12) Rồi
ở trong kinh Duy Ma Cật thì Đức Phật cũng có - cũng chính Đức Phật Thích Ca,
cũng giới thiệu ở trong kinh Duy Ma Cật thì có một cái nước Chúng Hương, thì ở
đó cũng có một cõi giới, mà cái đức Phật ở cõi nước Chúng Hương đó cũng có Bồ
Tát, cũng có Thinh Văn, cũng có đủ hết, người ta đến dự cái thuyết pháp ở trong
cái buổi thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca. Do đó vì vậy mà Đức Phật cũng giới
thiệu cho chúng ta biết cái nước Chúng Hương đó.
Như vậy thì
chúng ta thấy: Những cái người mà sau này thêm vào, thì người ta đứng ở trên
cái lập trường nào mà người ta thêm vào có nhiều cái giáo chủ mà của một cái đạo
Phật như vậy?
Nhưng mà người
ta - kẽ hở của người ta để cho chúng ta thấy rất rõ, là vì người ta tưởng tượng
là có thể là mỗi một cái quốc gia đó là một ông vua đó là một giáo chủ.
Cũng như bây
giờ trên hành tinh chúng ta có nhiều nước chớ đâu phải có một nước, phải không?
Nhưng mà mỗi nước thì có một ông vua, phải không?
Vì vậy cho
nên cái người mà thành lập những cái pháp mà sau này đặt ra đó để mà gạnh ra
thì họ đứng ở trên cái môi trường của cái vai trò phong kiến, tức là thời vua
chúa đồ đó, thành ra họ cứ nghĩ bây giờ mình đặt vậy là cái tôn giáo mà nó có
nhiều giáo chủ là cũng giống như là một cái - trên hành tinh chúng ta có nhiều
đất nước, có nhiều ông vua.
Họ nghĩ vậy
mà, họ bị ảnh hưởng như vậy đó, mà họ không thấy kẽ hở. Bởi vì tôn giáo nó chỉ
có một ông giáo chủ đó, cái giáo lý, cái triết lý của nó chỉ có một không thể
hai được - không thể hai, ba được.
Bởi vì thí dụ
bây giờ chúng ta đứng ở trên lập trường chúng ta nhìn nè: Cái tôn giáo mà hiện
bây giờ chúng ta phải thấy, như tôn giáo Cao Đài người ta đến người ta nghiên cứu
về tôn giáo Cao Đài, người ta tìm cái chân lý của nó không có, mà nó lấy Phật
giáo rồi lấy Thiên giáo, lấy Khổng giáo, rồi lấy Thiên Chúa giáo, nó kết hợp lại
nó thành ra một cái tôn giáo Cao Đài, là một cái tôn giáo Cao Đài nó không có
chân lý thật của nó, không có chính của nó. Còn cái Thiên Chúa nó có của nó.
Đó cho nên một
cái tôn giáo nó ra đời nó phải có cái triết lý của nó ở trong đó, mà nó phải có
cái pháp của nó ở trong đó, nó riêng biệt, nó không giống ai, cho nên mới nói
nó.
Còn bây giờ
chúng ta tổng hợp các tôn giáo lại chúng ta gọi là Thông Thiên Học đi, thì
Thông Thiên Học nó chỉ là kết hợp các tôn giáo lại để nó hòa hợp với nhau thôi,
chớ nó làm sao mà nó có cái chân lý gì riêng của nó đâu mà gọi là Thông Thiên Học
là cái giáo, cho nên nó đâu có giáo chủ.
Đó, bằng chứng
như vậy là các thầy thấy rằng cái vấn đề mà người ta gạnh vô, người ta gạnh vô
thêm một cái phần nào đó.
Cho nên đọc
qua cái sử của Phật giáo thì chúng ta thấy: Khi mà vua Bình Sa Vương bị vua A
Xà Thế giam ở trong tù á, thì chỉ có mình ông ta thôi, còn bà mẹ - bà Vi Đề Hy
thì không có bị bắt.
(36:10) Nhưng
mà khi trong kinh Tịnh Độ thì người ta gạnh cái câu sử đó để người ta nói ra là
bà Vi Đề Hy và vua Bình Sa Vương bị A Xà Thế bắt giam ở trong tù, cho nên bà ở
trong tù bà tha thiết bà cầu Đức Phật Thích Ca cứu độ bà, làm sao cho bà thoát
ra cảnh khổ của vợ chồng như vậy. Thì lúc bấy giờ Đức Phật mới thể hiện thần
thông, mới đến trong khám đường, mới dạy bà cách thức niệm Phật A Di Đà.
Chớ không phải
như ở trong kinh mình giới thiệu một cách đơn giản đâu, nó giới thiệu bằng cách
có lịch sử đàng hoàng, nhưng mà sự thật lịch sử thì nó không phải vậy.
Cho nên do
đó mà chúng ta thấy trong lịch sử viết nó rất rõ là khi mà vua Bình Sa Vương bị
bỏ tù, bị nhốt rồi thì bà Vi Đề Hy bà mới đem thực phẩm đến bà nuôi vua Bình Sa
Vương, thì vua A Xà Thế mới cấm không có cho bà đem thực phẩm nữa.
Bà không biết
làm sao mà vô thăm vua Bình Sa Vương, làm sao có gì ông này ăn mà sống được?
Cho nên do đó bà mới thoa mật khắp cùng người của bà, rồi bà mới mặc áo vô, rồi
bà mới xin đi, thì coi như lính nó xét - tay không mà, đâu có gì, nhưng mà
trong người bà, bà thoa mật.
Nhưng mà vua
A Xà Thế mới thấy sau một cái thời gian bà này ra thăm mà không có đem gì ăn mà
ông này ông không chết. Lẽ ra bỏ đói cho ổng chết mà sao lại ổng không chết?
Cho nên mới cho lính khám thì quả đúng là bà thoa mật ở trong người bả, cho nên
vua Bình Sa Vương mới vô đó liếm từ cái mật đó mà sống.
Đó, cho nên ổng
cấm luôn, cấm không cho bà Vi Đề Hy tức là mẹ của ổng, cấm không cho vô thăm nữa.
Thì khi mà cấm như vậy đó, thì lúc bấy giờ đó, thì bà Vi Đề Hy đâu có vô được.
Cho nên lúc
bấy giờ thì vua A Xà Thế vừa sanh ra đứa con. Vừa sanh ra đứa con thì ông thấy
ông thương đứa con ông quá chừng, thương không có thể nào mà tưởng tượng. Ông mới
chạy vô ông hỏi mẹ, khi mà mẹ sanh con á, vua Bình Sa Vương có… (Mất
tiếng)
i. diễn
tả cách thức mà vua Bình Sa Vương thương vua A Xà Thế như thế nào. Nói một hôm
con bị cái mụt nhọt ở cái đầu ngón tay, mà nó sưng, nó nhức, con khóc không có
ai mà dỗ được hết. Cho nên cha con mới dỗ con, nhưng mà ông biết làm sao?
Bởi vì cái mụt
- hễ vua mà ngậm ở trong miệng cái mụt nhọt - mà ngậm ngón tay con ở trong miệng,
thì cái nhờ cái sức nóng của cái miệng của vua Bình Sa Vương thì con không có
đau nhức, cho nên ông cứ ngậm hoài.
Mà hễ lấy ra
nó lạnh thì nó đau nhức, con khóc, cho nên đến khi mà cái mụt nhọt ngậm như vậy
mà đến khi cái mụt nhọt con ở ngón tay con nó bể ra mủ đi, mà ông cũng không
dám lấy ra nữa, phải đành nuốt máu mủ con ở trong bụng.
Vua A Xà Thế
nghe mẹ mình diễn tả cái tình thương của cha mình đến cái mức độ đó, ổng không
còn đứng yên được nữa, ổng chạy vô khám để mà mở cửa khám đặng thả cha mình ra.
Nhưng mà không ngờ là cha mình đã nhịn đói ba, bốn ngày, chết rồi còn đâu, ông
đã chết đói ở trong khám rồi.
(39:17) Đó
thì câu chuyện như vậy đó. Thế mà người ta dám đặt ra là bà Vi Đề Hy bị ở tù với
ông Bình Sa Vương, rồi từ đó bà Vi Đề Hy - đàn bà thì người ta nhát gan lắm,
người ta ở tù thì người ta sợ lắm cho nên người ta cứ cầu Phật thôi.
Cho nên ông
Phật cảm động được cái chỗ đó mới hiện đến, mới dạy bà niệm Phật Di Đà để cầu
vãng sanh, cho được lên cái cõi Cực Lạc an ổn, cho nên mới có những câu chuyện
như vậy.
Thì các thầy
thấy trong những cái chuyện mà - những cái dựa vào những cái chuyện lịch sử mà
ghi như vậy, nó có đúng sử không?
Cho nên
trong kinh Di Đà đó, hầu như là tất cả như kinh Quy Nguyên Trực Chỉ, kinh Di
Đà, rồi kinh Vô Lượng Quang, hầu như là người ta tu về pháp môn Tịnh Độ thì nó
rất nhiều chớ không phải.
Bởi vì, cái
thời đại mà trước chúng ta - các bậc tôn túc của chúng ta như các bậc Hòa thượng,
như bây giờ chúng ta thấy như Hòa thượng Thiện Hoa nè, Hòa thượng Tuyết Tịnh
nè, rồi một số quý bậc Hòa thượng lớn bây giờ hiện họ còn đang tu Tịnh Độ đó.
Cho nên
trong cái sự tu Tịnh Độ đó, thì trong kinh nó nhắc ở - như ở bên Trung Hoa thì
nó nhắc nói có một ông này ở tỉnh kia, có một ông nọ ở cái làng nọ, ở xứ này
kia, mọi người đều tu Tịnh Độ, tới cái ngày mà trực vãng Tây Phương thì có Phật
Di Đà hoặc là có những cái triệu chứng này, triệu chứng kia, thì nghe rất hay,
những cái huyền thoại, những câu chuyện chúng ta thấy tuyệt vời: Pháp môn Tịnh
Độ người ta tu chứng rất đông.
Cho nên cái
ngài - khi mà ngài thiền sư Huệ Viễn đó, ngài lập Liên Trì Thư Xã, ngài sớ giải
tất cả những cái loại kinh Đại Thừa Tịnh Độ này hướng dẫn cho người ta, ngài là
một thiền sư có danh tiếng, ngài thị tịch một cách tự tại.
Là khi mà
vua mời ngài đến để mà đăng đàn để thuyết pháp thì ngài từ chối ba lần như vậy,
thì trong một hôm đó thì ngài - cái người mà đến mời ngài, cái vị sứ quan mà đến
mời ngài, thì cái ngày đó là cái ngày lần thứ ba:
“Nếu ngài
kỳ này mà ngài không đến thuyết pháp cho vua trong cung vua thì tôi sẽ bị - cả
gia đình bị tru di tam tộc đi. Xin ngài vì thương chúng tôi mà ngài đi dùm!” Thì ngài hứa: “Thôi được
rồi ta sẽ đi.” Chớ ngài nguyện là ngài không có rời khỏi núi.
Cho nên hôm
đó thì ngài họp chúng lại, ngài hỏi: “Ai đi với ta xuống được kinh đô?” Thì
trong chúng ai cũng nói: Con thì đi được năm chục dặm, con thì đi bảy chục dặm,
con thì đi trăm dặm, con đi hai trăm dặm.
Ông
nói: “Mấy ông đi với ta không được đâu. Vậy còn ai đi được với ta nữa
không, mới đi với ta xuống dưới?” Thì có một chú thị giả nói: “Con
đi được với Hòa thượng!” Thì hỏi: “Vậy chớ ông đi bao nhiêu mà
ông đòi đi theo ta?” Thì nói: “Hòa thượng đi tới đâu con đi tới
đó à!”
Thì bắt đầu
cái ông Huệ Viễn đó ổng ngồi ổng thị tịch, ổng ngồi đó ổng thị tịch ổng chết,
thì chú thị giả đứng hầu bên đó cũng thị tịch luôn, hai thầy trò đứng chết. Trời!
Chúng ta nghe hay quá chớ gì, thầy trò sao mà chết tự tại quá!
(42:20) Đó
là cái câu chuyện của ngài Huệ Viễn. Nhưng mà ngài Huệ Viễn là một thiền sư tự
tại như vậy mà không đem cái pháp môn tự tại dạy người ta, để thành lập cái
Liên Trì Thư Xã dạy người ta.
Cho nên ngài
Vĩnh Minh Diên Thọ sau này, ngài xương minh ngài nói như thế này nè: “Một
người tu thiền mà tu Tịnh Độ như cọp mọc sừng, mười người đều đạt được mười người.
Còn người tu thiền mà không tu Tịnh Độ mười người chưa đạt một người.” Như
vậy là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ xương minh cái Tịnh Độ hết mức.
Nhưng mà
chúng ta - sự thật chúng ta đọc trong kinh Tịnh Độ chúng ta thấy có những cái mẩu
chuyện mà người tu Tịnh Độ chứng đạt rất là vi diệu, nhưng mà nhìn thực tế thì
chúng ta lại không thấy.
Bởi vì thực
tế là các bậc tôn túc, thầy tổ của chúng ta đều là những người tu Tịnh Độ hết rồi
bắt đầu Phật tử chúng ta ai cũng lần chuỗi hết, cho nên hiện giờ mà quý thầy thấy,
quý thầy mà ra ngồi, lên đàn mà ngồi, ông nào cũng đeo xâu chuỗi dài tới dưới cổ
hết.
Trời ơi
trang trí, Thầy nói ông thầy nào cũng đẹp hết à! Phải không? Thầy mà đeo chuỗi,
mà Thầy nói chuỗi tay rồi chuỗi cổ nữa, có nhiều người đeo hai, ba chuỗi chớ
đâu phải một chuỗi. Ông thầy nào cũng có hết, không phải là thầy Tịnh Độ sao!
Nhưng mà quý
thầy thấy, khi chết rồi quý thầy đó sao, quý thầy thấy không? Bằng chứng chúng
ta phải thực tế, phải nhìn chớ để chúng ta biết cái pháp môn đó có dẫn chúng ta
đến chỗ nào không chớ!
Nếu mà chúng
ta cứ nghe cái chuyện nói dóc ở trong - nói láo, vọng ngữ ở trong kinh sách mà
đặt điều ra nói, nói ông ở chỗ này, chỗ kia, cũng như bây giờ Thầy ngồi đây Thầy
nói có một ông ở xã Thạnh Phước, hay ông ở xã Trường Lưu, hay hoặc là ở huyện
Gò Dầu có ông đó vậy, nhưng mà đến đó hỏi không có ông đó, phải không?
Nhưng mà Thầy
ở đây Thầy đặt được, Thầy nói ông đó ông tu Tịnh Độ vậy vậy đó, tới ngày vãng
sanh, trời ơi mùi thơm ngào ngạt, hoa sen rớt cùng, hoa trời đầy hết!
Thầy nói ai
cũng - ở trong bài thì Thầy viết thì như vậy, nhưng mà thực tế lại cái chỗ đó hỏi
có ông đó tên đó không? Không! Không ai biết tên đó, ông đó hết. Có phải là vọng
ngữ không? Gạt người ta để xương minh cái Tịnh Độ chớ gì!
Nhưng cuối
cùng bây giờ chúng ta nhìn chung: Bao nhiêu người đã tu Tịnh Độ, từ cư sĩ có
nhiều người chỉ nghe cái Tịnh Độ ai tu cũng được hết, dễ hết, bởi vì pháp môn dễ
mà, niệm Phật là được vãng sanh. Cho nên bốn mươi tám lời nguyện của đức Phật
như thế nào:
“Thiện
nam tín nữ các người,
Chí thành
tưởng Phật niệm mười tiếng ra.
Ta không
rước ở nước ta,
Thệ không
làm Phật chắc đà không sai.”
Các con thấy
ông Phật Di Đà nguyện rất lớn. Nhưng mà người ta niệm Phật đâu có mười tiếng,
trời đất ơi cả lố, phải không? Các con thấy đếm không có hết, chuỗi này lần tới
chuỗi kia, ông nào cũng muốn sanh Cực Lạc chớ ai muốn ở thế gian, ở dưới cái
cõi trần này nó cực khổ gần chết đây!
(45:04) Cho
nên nó có những cái pháp môn mà nhiều người phải niệm Phật, phải la cho lớn để ức
chế vọng tưởng chớ gì. Có nhiều người niệm Phật theo cái hơi thở, rồi nhiều người
phải đếm xuôi, đếm ngược đủ loại, đủ cách để mà ức chế vọng tưởng, cuối cùng chẳng
thấy ra ma nào mà có thể giải thoát sanh tử hết, không có làm chủ được sanh tử,
mà không biết chết đi không biết đọa ở đâu chớ còn Thầy thấy khi mà chết rồi
các bậc Hòa thượng thì mình còn dễ thấy. Bởi vì họ là những bậc thầy mình mà, họ
đều là tu niệm Phật hết mà, nhưng mà tới chừng đó họ bán thân, họ nằm tới cái
ngày chết họ mê muội luôn, tới chừng họ chết không biết gì hết, không có tỉnh
gì hết!
Đó, thì bằng
chứng Thầy dẫn chứng trong cái bài kinh của Phật dạy chúng ta rõ ràng, chúng ta
tu chỉ Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi mà chúng ta chết đi, chúng ta biết chúng ta được
vào bào thai mẹ, phải không?
Có một cái
Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi, chúng ta chỉ đi mà chúng ta nhìn ở dưới chân chúng
ta đừng có đạp chết chúng sanh là cũng đã đủ tỉnh thức rồi, là khi chết là
chúng ta đã đi vào lòng mẹ là chúng ta biết. Tức là không phải nghiệp lực lôi
chúng ta rồi, cho nên khi mà vào bào thai là chúng ta biết.
Chúng ta biết
chúng ta đi vào bào thai, tức là biết chúng ta sanh vào cái nhà nào, cái người
đó là ai, chúng ta biết được. Bởi vì cái sức tỉnh thức của chúng ta, cho nên
không có cái cận tử nghiệp nào lôi chúng ta được. Còn cái sức tỉnh thức chúng
ta không có thì chúng ta phải mê.
Rồi bây giờ
vì cái duyên nghiệp nào mà các người niệm Phật mà lại nằm mê man ở trên cái giường
bệnh? Người mà bán thân mà khi chết họ mê man họ không biết đâu.
Đó cho nên
bây giờ, Thầy có nhắc lại cho quý thầy thấy đó, đó là như - thí dụ như bây giờ
hiện Sư trưởng không phải là người không niệm Phật sao?
Không phải
là các Hòa thượng tôn túc Thầy không nhắc, không kể tên ra cho quý thầy thấy,
các bậc Hòa thượng danh tiếng ở trong đất nước chớ không phải không đâu. Những
cái bậc đó đều danh tiếng. Cho nên hầu hết là những người đó đều là thông kinh
sách hết, mà họ tu Tịnh Độ, nhưng cuối cùng họ trăn trở trên cái chỗ giường bệnh
của họ, rất là khổ sở.
Đó là tất cả
những cái mà thầy tổ của mình là những người mà đã hướng dẫn - Thầy nói Thầy và
quý thầy hiện bây giờ mà biết được những bậc Hòa thượng danh tiếng chớ còn những
bậc mà nhỏ nhỏ thôi chúng ta không biết được đâu, phải không? Không hiểu đâu.
Nhưng mà những
bậc Hòa thượng danh tiếng là những người mà gọi là ai cũng biết tiếng, nhưng mà
khi chết thì thấy rất đau khổ. Họ là những người mà gọi là tin Cực Lạc hết sức
tin đó, niệm Phật hết sức niệm đó, đêm ngày niệm đó hở ra chút nào bây giờ ngồi
ở trên pháp tọa chớ mà rảnh là ngồi lần chuỗi rồi, không có để kẽ hở đó!
Họ đáp từ, họ
nói gì nói rồi cái bắt đầu ngồi không cái họ cũng… Họ đến cái chỗ mà họ thọ
trai cũng vậy, họ ngồi họ ăn thôi chớ mà hở ra cái bắt đầu họ ngồi lần chuỗi rồi.
Làm như cái thói quen của họ rồi!
Thầy thấy
quý Hòa thượng vậy à, mà liên tục như vậy mà thế tới cuối cuộc đời của họ để lại
cái hình ảnh đau khổ hết sức, nhiều khi mổ xẻ từng cái miếng da của họ ở trong
thân của họ nữa. Thầy thấy qua những cái chuyện mà giải phẫu của bệnh viện, Thầy
thấy tan nát cái thân họ hết.
(48:01) Mà
họ là những người niệm Phật mà Phật Di Đà sao không cứu họ để họ khổ quá vậy? Vậy
mà ông ta dám hứa vầy:
"Thiện
nam tín nữ các người
Chí thành
tưởng Phật niệm mười tiếng ra.”
Bởi vậy cho
nên chúng ta chỉ tưởng, tưởng để mà sống cho hy vọng, nhưng mà tới cuối cùng
thì chúng ta để lại những cái đau khổ. Mà chúng ta không sáng suốt. Con người
chúng ta sao vô minh đến độ mà không nhìn thấy, cứ đọc ở trong kinh sách như thế
nào chúng ta tin như thế nấy.
Thứ nhất,
làm sao mà một tôn giáo lại có nhiều giáo chủ được? Dù Đức Phật Thích Ca có nói
như vậy chúng ta cũng phải nghĩ rằng: Ông Phật Thích Ca chỉ là một người khiêm
nhượng mà thôi.
Nếu mà đã có
những bảy ông Phật quá khứ thì làm sao không có giáo pháp của đức Phật mà ông
Phật Thích Ca phải đi tìm từng ông này đến ông kia, rồi phải bỏ đi, rồi tự mình
đi phát triển ra một cái pháp tu hành?
Các con
nghĩ: Đức Phật nói quá khứ có bảy vị Phật, phải không? Thế mà ông Phật phải đi
tìm cái pháp để tu, nếu mà có bảy vị Phật thì tức là phải có cái giáo pháp chớ
? Sao lại có bảy người tu được mà lại không có giáo pháp để lại cho đời sau?
Lại là tu
nào là nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, Không Vô Biên Xứ, rồi tu cái gì đủ
thứ khổ hạnh. Ông Phật khổ hạnh đến cái mức độ mà còn da bọc xương, không còn
gì hết, rờ da bụng đụng xương sống, rờ xương sống đụng da bụng, ngồi hết có nổi
rồi, ông Phật chỉ còn nằm dẹp xuống đó mà thở thoi thóp như là sắp chết rồi. Nếu
mà không may gặp cái cô chăn dê ở đó vắt sữa mà đổ cho ông Phật thì ổng cũng
tiêu luôn rồi còn gì, còn gì tu?
Vậy thì có
giáo pháp - mà tại sao không có cái giáo pháp của Đức Phật mà có bảy đức Phật ở
quá khứ? Cái lý do gì không có? Mà ngoại đạo thì sáu cái giáo phái của tà giáo
ngoại đạo, trong lúc đó lại bành trướng, lại phát triển rất lớn. Còn kinh sách
của Phật giáo bấy giờ lại không có nữa, chỉ có ba bộ kinh Vệ Đà chớ chưa có bộ
Áo (Nghĩa) Thư nữa, thì quý thầy nghĩ như thế nào?
Đâu phải đất
nước Ấn Độ không có chữ nghĩa, mà có chữ nghĩa, lại là có những cái bộ kinh Vệ
Đà lâu đời nhất ở trong cái đất nước đó. Thế mà Đức Phật ra đời thì đã có những
kinh đó rồi, thế mà sao lại không có những kinh gì mà của bảy Đức Phật này đã
tu thành tựu được như vậy, đều là bậc chánh giác?
Vả lại cái nữa,
Đức Phật trong kinh nói: Đồng thời trong một lượt Đức Phật không có một bậc A
La Hán mà lưu xuất hai người một lượt, thì đồng thời đâu có được! Các thầy thấy,
không có được.
Bởi vì nếu
mà đồng thời - mà bây giờ Đức Phật có giới thiệu có một đức giáo chủ ở chỗ nào
đó, thì ở đại Ta Bà này có một đức giáo chủ, thì đồng thời một cái thời điểm
trong cái không gian vũ trụ này đã có hai đức giáo chủ thì không thể có lưu xuất
ra được một (lượt).
Kinh xác định
quá rõ ràng, bài kinh Nguyên Thủy rõ ràng. Đức Phật xác định chỉ có một mà thôi
chứ không thể hai. Cũng như vua Chuyển Luân Vương, chỉ có một vua Chuyển Luân
Vương trong cái thời đại đó chớ không có thể có nhiều ông vua Chuyển Luân Vương
ở trong cái thế gian này được.
Nghĩa là bây
giờ ở trong cái thế giới mình, trên cái trái đất này hành tinh nó có nhiều nước,
phải không? Mà chỉ có một ông Chuyển Luân Vương ra đời thôi chớ còn không phải
nước khác có ông Chuyển Luân Vương được. Nếu có hai ông Chuyển Luân Vương này
mà như vậy nó ngang nhau ổng đánh nhau chết hết còn cái gì?
(51:14) Cái
kiểu đó các con hiểu. Bởi vì ông Chuyển Luân Vương này cũng có bảy cái báu thì
ông kia cũng có bảy cái báu, mà đồng thời ra một lượt thì hai ông này choảng
nhau thì bà con mình nhăn răng, méo miệng hết, đâu còn!
Cho nên Đức
Phật nói đồng thời không có hai ông Chuyển Luân Vương được. Mà Đức Phật đã xưng
mình trong cái bài Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, làm thầy trời và
người.
Trời, người
là cái ở trên hành tinh của chúng ta, và nơi đâu có những cái sắc thân con người
đều là thầy của loài người. Mà chỗ nào cái thế giới vô hình - Tam Giới mà - cái
thế giới vô hình, dù cõi trời hay cõi nào, vô hình ở đâu, bất kỳ ở chỗ nào cũng
đều làm thầy hết. Vậy thì có một ông chứ sao lại có hai ông?
Đó thì như vậy
là đời sau người ta không hiểu được cái ý đó, cho nên người ta gạnh thêm. Gạnh
thêm thứ nhất là lịch sử sai, thứ hai là gạnh thêm như trong kinh mà nhắc ra vậy
là sai hết.
Cho nên
chúng ta là người có trí chớ đâu phải chúng ta ngu để mà người khác gạt chúng
ta được! Chỉ có những người vô minh nói đâu nghe đó, làm tầm điên, tầm khùng,
cuối cùng tu hành chẳng ra gì, tới chừng chết nhăn răng, méo miệng, nằm đó mê mờ
cũng như là cái gì không biết gì hết.
Đó thì bằng
chứng Thầy thấy hiện tiền là trải qua cái đời của Thầy thôi, chớ Thầy chưa nói
những cái đời khác nữa, nhưng mà xét đến từ khi mà tất cả các đại đệ tử của Phật
thị tịch hết rồi, thì Phật giáo vắng bóng rồi. Người ta chia ra làm hai mươi bộ
phái là tiêu rồi đó, kể như là Phật giáo tiêu rồi đó, không còn nữa rồi.
Đó thì hiện
bây giờ chúng ta thấy trong cái vấn đề đó nó cụ thể và rất rõ ràng. Cho nên
chúng ta phải xét thấy được cái đường lối mà chúng ta hiện giờ tu hành. Tu hành
làm sao mà chứng nghiệm được cái chúng ta làm chủ nè, làm sao mà chúng ta thức
tỉnh được nè. Đó là những cái đặc biệt của Phật giáo.
Đó thì hôm
nay Thầy giải thích như vậy để biết rằng: Tất cả những cái này là những người
sau người ta thêm bớt, người ta làm ra, rồi người ta đặt ra nào Liên Trì Thư
Xã, rồi người ta dạy đủ cách thức niệm Phật chớ không phải có một lối niệm Phật
đâu, không phải niệm Phật thường đâu. Người ta niệm Phật thế này không được,
người ta đặt niệm Phật cách khác đủ mọi loại.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét