Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2024

249- KINH DI ĐÀ DO ĐỜI SAU THÊU DỆT

 

249- KINH DI ĐÀ DO ĐỜI SAU THÊU DỆT

(30:21) Hôm nay tiếp tục bài giảng, thì vừa rồi, khi mà Thầy giảng xong bài giảng thì cũng có một vài ý kiến, do đó thì hôm nay Thầy xin trả lời ý kiến trước để cho nó thấu suốt bài giảng vừa rồi, rồi chúng ta sẽ tiếp tục tới bài giảng kế.

Thì đây có một vị thầy hỏi Thầy:

“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy hoan hỷ, bố thí cho con thưa hỏi!

Như buổi thuyết giảng hôm qua đó, Thầy giảng về lý và sự quy y Tam Bảo, có đoạn hóa tướng Tam Bảo. Thưa Thầy, chỗ hóa tướng Tam Bảo Thầy chỉ Đức Phật giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni hiện tại thuyết pháp độ sanh.

Vậy trong kinh Di Đà, Đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni tại hội thuyết ở nước Xá Vệ trong vườn của trưởng giả Cấp Cô Độc, kinh văn có đoạn Ngài bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Từ đây sang phía tây, trải qua hơn mười vạn ức Phật độ, có một thế giới tên gọi là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đang nói pháp.”

Thưa Thầy, Đức giáo chủ Thích Ca Ngài nói ra kinh này là ý chỉ giáo pháp gì? Và tại sao lại sinh ra pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc quốc? Cúi xin Thầy chỉ giáo cho con!”

Đó là câu hỏi.

Bởi vì Thầy giảng ở trong bài giảng đó, thì chỉ - Thầy biết rằng theo giáo lý của Đức Phật đó, một tôn giáo thì có một đức giáo chủ chớ không thể có nhiều giáo chủ.

Cho nên hầu hết là chúng ta cũng nhìn thấy ở trên cái hành tinh chúng ta có nhiều tôn giáo, nhưng mà mỗi tôn giáo đều có một đức giáo chủ chớ không có hai, ba giáo chủ.

Do vì vậy đạo Phật thì chúng ta cũng biết rằng chỉ có từ Đức Thích Ca mà thôi. Nhưng vì sau này, mình phải xác định như thế này nè: Sau này người ta thêm thắt ra, rồi người ta ở trong cái tư tưởng nào mà người ta thêm thắt ra.

Như thí dụ như trong kinh Di Đà thì Đức Phật không phải là giới thiệu có một cái đức Phật A Di Đà là một giáo chủ của cõi Tây Phương, mà trong đó Đức Phật còn giới thiệu bốn phương, rồi phương trên, phương dưới đều có những cái đức Phật là giáo chủ mỗi phương hết.

(33:12) Rồi ở trong kinh Duy Ma Cật thì Đức Phật cũng có - cũng chính Đức Phật Thích Ca, cũng giới thiệu ở trong kinh Duy Ma Cật thì có một cái nước Chúng Hương, thì ở đó cũng có một cõi giới, mà cái đức Phật ở cõi nước Chúng Hương đó cũng có Bồ Tát, cũng có Thinh Văn, cũng có đủ hết, người ta đến dự cái thuyết pháp ở trong cái buổi thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca. Do đó vì vậy mà Đức Phật cũng giới thiệu cho chúng ta biết cái nước Chúng Hương đó.

Như vậy thì chúng ta thấy: Những cái người mà sau này thêm vào, thì người ta đứng ở trên cái lập trường nào mà người ta thêm vào có nhiều cái giáo chủ mà của một cái đạo Phật như vậy?

Nhưng mà người ta - kẽ hở của người ta để cho chúng ta thấy rất rõ, là vì người ta tưởng tượng là có thể là mỗi một cái quốc gia đó là một ông vua đó là một giáo chủ.

Cũng như bây giờ trên hành tinh chúng ta có nhiều nước chớ đâu phải có một nước, phải không? Nhưng mà mỗi nước thì có một ông vua, phải không?

Vì vậy cho nên cái người mà thành lập những cái pháp mà sau này đặt ra đó để mà gạnh ra thì họ đứng ở trên cái môi trường của cái vai trò phong kiến, tức là thời vua chúa đồ đó, thành ra họ cứ nghĩ bây giờ mình đặt vậy là cái tôn giáo mà nó có nhiều giáo chủ là cũng giống như là một cái - trên hành tinh chúng ta có nhiều đất nước, có nhiều ông vua.

Họ nghĩ vậy mà, họ bị ảnh hưởng như vậy đó, mà họ không thấy kẽ hở. Bởi vì tôn giáo nó chỉ có một ông giáo chủ đó, cái giáo lý, cái triết lý của nó chỉ có một không thể hai được - không thể hai, ba được.

Bởi vì thí dụ bây giờ chúng ta đứng ở trên lập trường chúng ta nhìn nè: Cái tôn giáo mà hiện bây giờ chúng ta phải thấy, như tôn giáo Cao Đài người ta đến người ta nghiên cứu về tôn giáo Cao Đài, người ta tìm cái chân lý của nó không có, mà nó lấy Phật giáo rồi lấy Thiên giáo, lấy Khổng giáo, rồi lấy Thiên Chúa giáo, nó kết hợp lại nó thành ra một cái tôn giáo Cao Đài, là một cái tôn giáo Cao Đài nó không có chân lý thật của nó, không có chính của nó. Còn cái Thiên Chúa nó có của nó.

Đó cho nên một cái tôn giáo nó ra đời nó phải có cái triết lý của nó ở trong đó, mà nó phải có cái pháp của nó ở trong đó, nó riêng biệt, nó không giống ai, cho nên mới nói nó.

Còn bây giờ chúng ta tổng hợp các tôn giáo lại chúng ta gọi là Thông Thiên Học đi, thì Thông Thiên Học nó chỉ là kết hợp các tôn giáo lại để nó hòa hợp với nhau thôi, chớ nó làm sao mà nó có cái chân lý gì riêng của nó đâu mà gọi là Thông Thiên Học là cái giáo, cho nên nó đâu có giáo chủ.

Đó, bằng chứng như vậy là các thầy thấy rằng cái vấn đề mà người ta gạnh vô, người ta gạnh vô thêm một cái phần nào đó.

Cho nên đọc qua cái sử của Phật giáo thì chúng ta thấy: Khi mà vua Bình Sa Vương bị vua A Xà Thế giam ở trong tù á, thì chỉ có mình ông ta thôi, còn bà mẹ - bà Vi Đề Hy thì không có bị bắt.

(36:10) Nhưng mà khi trong kinh Tịnh Độ thì người ta gạnh cái câu sử đó để người ta nói ra là bà Vi Đề Hy và vua Bình Sa Vương bị A Xà Thế bắt giam ở trong tù, cho nên bà ở trong tù bà tha thiết bà cầu Đức Phật Thích Ca cứu độ bà, làm sao cho bà thoát ra cảnh khổ của vợ chồng như vậy. Thì lúc bấy giờ Đức Phật mới thể hiện thần thông, mới đến trong khám đường, mới dạy bà cách thức niệm Phật A Di Đà.

Chớ không phải như ở trong kinh mình giới thiệu một cách đơn giản đâu, nó giới thiệu bằng cách có lịch sử đàng hoàng, nhưng mà sự thật lịch sử thì nó không phải vậy.

Cho nên do đó mà chúng ta thấy trong lịch sử viết nó rất rõ là khi mà vua Bình Sa Vương bị bỏ tù, bị nhốt rồi thì bà Vi Đề Hy bà mới đem thực phẩm đến bà nuôi vua Bình Sa Vương, thì vua A Xà Thế mới cấm không có cho bà đem thực phẩm nữa.

Bà không biết làm sao mà vô thăm vua Bình Sa Vương, làm sao có gì ông này ăn mà sống được? Cho nên do đó bà mới thoa mật khắp cùng người của bà, rồi bà mới mặc áo vô, rồi bà mới xin đi, thì coi như lính nó xét - tay không mà, đâu có gì, nhưng mà trong người bà, bà thoa mật.

Nhưng mà vua A Xà Thế mới thấy sau một cái thời gian bà này ra thăm mà không có đem gì ăn mà ông này ông không chết. Lẽ ra bỏ đói cho ổng chết mà sao lại ổng không chết? Cho nên mới cho lính khám thì quả đúng là bà thoa mật ở trong người bả, cho nên vua Bình Sa Vương mới vô đó liếm từ cái mật đó mà sống.

Đó, cho nên ổng cấm luôn, cấm không cho bà Vi Đề Hy tức là mẹ của ổng, cấm không cho vô thăm nữa. Thì khi mà cấm như vậy đó, thì lúc bấy giờ đó, thì bà Vi Đề Hy đâu có vô được.

Cho nên lúc bấy giờ thì vua A Xà Thế vừa sanh ra đứa con. Vừa sanh ra đứa con thì ông thấy ông thương đứa con ông quá chừng, thương không có thể nào mà tưởng tượng. Ông mới chạy vô ông hỏi mẹ, khi mà mẹ sanh con á, vua Bình Sa Vương có…​ (Mất tiếng)

i.           diễn tả cách thức mà vua Bình Sa Vương thương vua A Xà Thế như thế nào. Nói một hôm con bị cái mụt nhọt ở cái đầu ngón tay, mà nó sưng, nó nhức, con khóc không có ai mà dỗ được hết. Cho nên cha con mới dỗ con, nhưng mà ông biết làm sao?

Bởi vì cái mụt - hễ vua mà ngậm ở trong miệng cái mụt nhọt - mà ngậm ngón tay con ở trong miệng, thì cái nhờ cái sức nóng của cái miệng của vua Bình Sa Vương thì con không có đau nhức, cho nên ông cứ ngậm hoài.

Mà hễ lấy ra nó lạnh thì nó đau nhức, con khóc, cho nên đến khi mà cái mụt nhọt ngậm như vậy mà đến khi cái mụt nhọt con ở ngón tay con nó bể ra mủ đi, mà ông cũng không dám lấy ra nữa, phải đành nuốt máu mủ con ở trong bụng.

Vua A Xà Thế nghe mẹ mình diễn tả cái tình thương của cha mình đến cái mức độ đó, ổng không còn đứng yên được nữa, ổng chạy vô khám để mà mở cửa khám đặng thả cha mình ra. Nhưng mà không ngờ là cha mình đã nhịn đói ba, bốn ngày, chết rồi còn đâu, ông đã chết đói ở trong khám rồi.

(39:17) Đó thì câu chuyện như vậy đó. Thế mà người ta dám đặt ra là bà Vi Đề Hy bị ở tù với ông Bình Sa Vương, rồi từ đó bà Vi Đề Hy - đàn bà thì người ta nhát gan lắm, người ta ở tù thì người ta sợ lắm cho nên người ta cứ cầu Phật thôi.

Cho nên ông Phật cảm động được cái chỗ đó mới hiện đến, mới dạy bà niệm Phật Di Đà để cầu vãng sanh, cho được lên cái cõi Cực Lạc an ổn, cho nên mới có những câu chuyện như vậy.

Thì các thầy thấy trong những cái chuyện mà - những cái dựa vào những cái chuyện lịch sử mà ghi như vậy, nó có đúng sử không?

Cho nên trong kinh Di Đà đó, hầu như là tất cả như kinh Quy Nguyên Trực Chỉ, kinh Di Đà, rồi kinh Vô Lượng Quang, hầu như là người ta tu về pháp môn Tịnh Độ thì nó rất nhiều chớ không phải.

Bởi vì, cái thời đại mà trước chúng ta - các bậc tôn túc của chúng ta như các bậc Hòa thượng, như bây giờ chúng ta thấy như Hòa thượng Thiện Hoa nè, Hòa thượng Tuyết Tịnh nè, rồi một số quý bậc Hòa thượng lớn bây giờ hiện họ còn đang tu Tịnh Độ đó.

Cho nên trong cái sự tu Tịnh Độ đó, thì trong kinh nó nhắc ở - như ở bên Trung Hoa thì nó nhắc nói có một ông này ở tỉnh kia, có một ông nọ ở cái làng nọ, ở xứ này kia, mọi người đều tu Tịnh Độ, tới cái ngày mà trực vãng Tây Phương thì có Phật Di Đà hoặc là có những cái triệu chứng này, triệu chứng kia, thì nghe rất hay, những cái huyền thoại, những câu chuyện chúng ta thấy tuyệt vời: Pháp môn Tịnh Độ người ta tu chứng rất đông.

Cho nên cái ngài - khi mà ngài thiền sư Huệ Viễn đó, ngài lập Liên Trì Thư Xã, ngài sớ giải tất cả những cái loại kinh Đại Thừa Tịnh Độ này hướng dẫn cho người ta, ngài là một thiền sư có danh tiếng, ngài thị tịch một cách tự tại.

Là khi mà vua mời ngài đến để mà đăng đàn để thuyết pháp thì ngài từ chối ba lần như vậy, thì trong một hôm đó thì ngài - cái người mà đến mời ngài, cái vị sứ quan mà đến mời ngài, thì cái ngày đó là cái ngày lần thứ ba:

“Nếu ngài kỳ này mà ngài không đến thuyết pháp cho vua trong cung vua thì tôi sẽ bị - cả gia đình bị tru di tam tộc đi. Xin ngài vì thương chúng tôi mà ngài đi dùm!” Thì ngài hứa: “Thôi được rồi ta sẽ đi.” Chớ ngài nguyện là ngài không có rời khỏi núi.

Cho nên hôm đó thì ngài họp chúng lại, ngài hỏi: “Ai đi với ta xuống được kinh đô?” Thì trong chúng ai cũng nói: Con thì đi được năm chục dặm, con thì đi bảy chục dặm, con thì đi trăm dặm, con đi hai trăm dặm.

Ông nói: “Mấy ông đi với ta không được đâu. Vậy còn ai đi được với ta nữa không, mới đi với ta xuống dưới?” Thì có một chú thị giả nói: “Con đi được với Hòa thượng!” Thì hỏi: “Vậy chớ ông đi bao nhiêu mà ông đòi đi theo ta?” Thì nói: “Hòa thượng đi tới đâu con đi tới đó à!”

Thì bắt đầu cái ông Huệ Viễn đó ổng ngồi ổng thị tịch, ổng ngồi đó ổng thị tịch ổng chết, thì chú thị giả đứng hầu bên đó cũng thị tịch luôn, hai thầy trò đứng chết. Trời! Chúng ta nghe hay quá chớ gì, thầy trò sao mà chết tự tại quá!

(42:20) Đó là cái câu chuyện của ngài Huệ Viễn. Nhưng mà ngài Huệ Viễn là một thiền sư tự tại như vậy mà không đem cái pháp môn tự tại dạy người ta, để thành lập cái Liên Trì Thư Xã dạy người ta.

Cho nên ngài Vĩnh Minh Diên Thọ sau này, ngài xương minh ngài nói như thế này nè: “Một người tu thiền mà tu Tịnh Độ như cọp mọc sừng, mười người đều đạt được mười người. Còn người tu thiền mà không tu Tịnh Độ mười người chưa đạt một người.” Như vậy là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ xương minh cái Tịnh Độ hết mức.

Nhưng mà chúng ta - sự thật chúng ta đọc trong kinh Tịnh Độ chúng ta thấy có những cái mẩu chuyện mà người tu Tịnh Độ chứng đạt rất là vi diệu, nhưng mà nhìn thực tế thì chúng ta lại không thấy.

Bởi vì thực tế là các bậc tôn túc, thầy tổ của chúng ta đều là những người tu Tịnh Độ hết rồi bắt đầu Phật tử chúng ta ai cũng lần chuỗi hết, cho nên hiện giờ mà quý thầy thấy, quý thầy mà ra ngồi, lên đàn mà ngồi, ông nào cũng đeo xâu chuỗi dài tới dưới cổ hết.

Trời ơi trang trí, Thầy nói ông thầy nào cũng đẹp hết à! Phải không? Thầy mà đeo chuỗi, mà Thầy nói chuỗi tay rồi chuỗi cổ nữa, có nhiều người đeo hai, ba chuỗi chớ đâu phải một chuỗi. Ông thầy nào cũng có hết, không phải là thầy Tịnh Độ sao!

Nhưng mà quý thầy thấy, khi chết rồi quý thầy đó sao, quý thầy thấy không? Bằng chứng chúng ta phải thực tế, phải nhìn chớ để chúng ta biết cái pháp môn đó có dẫn chúng ta đến chỗ nào không chớ!

Nếu mà chúng ta cứ nghe cái chuyện nói dóc ở trong - nói láo, vọng ngữ ở trong kinh sách mà đặt điều ra nói, nói ông ở chỗ này, chỗ kia, cũng như bây giờ Thầy ngồi đây Thầy nói có một ông ở xã Thạnh Phước, hay ông ở xã Trường Lưu, hay hoặc là ở huyện Gò Dầu có ông đó vậy, nhưng mà đến đó hỏi không có ông đó, phải không?

Nhưng mà Thầy ở đây Thầy đặt được, Thầy nói ông đó ông tu Tịnh Độ vậy vậy đó, tới ngày vãng sanh, trời ơi mùi thơm ngào ngạt, hoa sen rớt cùng, hoa trời đầy hết!

Thầy nói ai cũng - ở trong bài thì Thầy viết thì như vậy, nhưng mà thực tế lại cái chỗ đó hỏi có ông đó tên đó không? Không! Không ai biết tên đó, ông đó hết. Có phải là vọng ngữ không? Gạt người ta để xương minh cái Tịnh Độ chớ gì!

Nhưng cuối cùng bây giờ chúng ta nhìn chung: Bao nhiêu người đã tu Tịnh Độ, từ cư sĩ có nhiều người chỉ nghe cái Tịnh Độ ai tu cũng được hết, dễ hết, bởi vì pháp môn dễ mà, niệm Phật là được vãng sanh. Cho nên bốn mươi tám lời nguyện của đức Phật như thế nào:

“Thiện nam tín nữ các người,

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra.

Ta không rước ở nước ta,

Thệ không làm Phật chắc đà không sai.”

Các con thấy ông Phật Di Đà nguyện rất lớn. Nhưng mà người ta niệm Phật đâu có mười tiếng, trời đất ơi cả lố, phải không? Các con thấy đếm không có hết, chuỗi này lần tới chuỗi kia, ông nào cũng muốn sanh Cực Lạc chớ ai muốn ở thế gian, ở dưới cái cõi trần này nó cực khổ gần chết đây!

(45:04) Cho nên nó có những cái pháp môn mà nhiều người phải niệm Phật, phải la cho lớn để ức chế vọng tưởng chớ gì. Có nhiều người niệm Phật theo cái hơi thở, rồi nhiều người phải đếm xuôi, đếm ngược đủ loại, đủ cách để mà ức chế vọng tưởng, cuối cùng chẳng thấy ra ma nào mà có thể giải thoát sanh tử hết, không có làm chủ được sanh tử, mà không biết chết đi không biết đọa ở đâu chớ còn Thầy thấy khi mà chết rồi các bậc Hòa thượng thì mình còn dễ thấy. Bởi vì họ là những bậc thầy mình mà, họ đều là tu niệm Phật hết mà, nhưng mà tới chừng đó họ bán thân, họ nằm tới cái ngày chết họ mê muội luôn, tới chừng họ chết không biết gì hết, không có tỉnh gì hết!

Đó, thì bằng chứng Thầy dẫn chứng trong cái bài kinh của Phật dạy chúng ta rõ ràng, chúng ta tu chỉ Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi mà chúng ta chết đi, chúng ta biết chúng ta được vào bào thai mẹ, phải không?

Có một cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi, chúng ta chỉ đi mà chúng ta nhìn ở dưới chân chúng ta đừng có đạp chết chúng sanh là cũng đã đủ tỉnh thức rồi, là khi chết là chúng ta đã đi vào lòng mẹ là chúng ta biết. Tức là không phải nghiệp lực lôi chúng ta rồi, cho nên khi mà vào bào thai là chúng ta biết.

Chúng ta biết chúng ta đi vào bào thai, tức là biết chúng ta sanh vào cái nhà nào, cái người đó là ai, chúng ta biết được. Bởi vì cái sức tỉnh thức của chúng ta, cho nên không có cái cận tử nghiệp nào lôi chúng ta được. Còn cái sức tỉnh thức chúng ta không có thì chúng ta phải mê.

Rồi bây giờ vì cái duyên nghiệp nào mà các người niệm Phật mà lại nằm mê man ở trên cái giường bệnh? Người mà bán thân mà khi chết họ mê man họ không biết đâu.

Đó cho nên bây giờ, Thầy có nhắc lại cho quý thầy thấy đó, đó là như - thí dụ như bây giờ hiện Sư trưởng không phải là người không niệm Phật sao?

Không phải là các Hòa thượng tôn túc Thầy không nhắc, không kể tên ra cho quý thầy thấy, các bậc Hòa thượng danh tiếng ở trong đất nước chớ không phải không đâu. Những cái bậc đó đều danh tiếng. Cho nên hầu hết là những người đó đều là thông kinh sách hết, mà họ tu Tịnh Độ, nhưng cuối cùng họ trăn trở trên cái chỗ giường bệnh của họ, rất là khổ sở.

Đó là tất cả những cái mà thầy tổ của mình là những người mà đã hướng dẫn - Thầy nói Thầy và quý thầy hiện bây giờ mà biết được những bậc Hòa thượng danh tiếng chớ còn những bậc mà nhỏ nhỏ thôi chúng ta không biết được đâu, phải không? Không hiểu đâu.

Nhưng mà những bậc Hòa thượng danh tiếng là những người mà gọi là ai cũng biết tiếng, nhưng mà khi chết thì thấy rất đau khổ. Họ là những người mà gọi là tin Cực Lạc hết sức tin đó, niệm Phật hết sức niệm đó, đêm ngày niệm đó hở ra chút nào bây giờ ngồi ở trên pháp tọa chớ mà rảnh là ngồi lần chuỗi rồi, không có để kẽ hở đó!

Họ đáp từ, họ nói gì nói rồi cái bắt đầu ngồi không cái họ cũng…​ Họ đến cái chỗ mà họ thọ trai cũng vậy, họ ngồi họ ăn thôi chớ mà hở ra cái bắt đầu họ ngồi lần chuỗi rồi. Làm như cái thói quen của họ rồi!

Thầy thấy quý Hòa thượng vậy à, mà liên tục như vậy mà thế tới cuối cuộc đời của họ để lại cái hình ảnh đau khổ hết sức, nhiều khi mổ xẻ từng cái miếng da của họ ở trong thân của họ nữa. Thầy thấy qua những cái chuyện mà giải phẫu của bệnh viện, Thầy thấy tan nát cái thân họ hết.

(48:01) Mà họ là những người niệm Phật mà Phật Di Đà sao không cứu họ để họ khổ quá vậy? Vậy mà ông ta dám hứa vầy:

"Thiện nam tín nữ các người

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra.”

Bởi vậy cho nên chúng ta chỉ tưởng, tưởng để mà sống cho hy vọng, nhưng mà tới cuối cùng thì chúng ta để lại những cái đau khổ. Mà chúng ta không sáng suốt. Con người chúng ta sao vô minh đến độ mà không nhìn thấy, cứ đọc ở trong kinh sách như thế nào chúng ta tin như thế nấy.

Thứ nhất, làm sao mà một tôn giáo lại có nhiều giáo chủ được? Dù Đức Phật Thích Ca có nói như vậy chúng ta cũng phải nghĩ rằng: Ông Phật Thích Ca chỉ là một người khiêm nhượng mà thôi.

Nếu mà đã có những bảy ông Phật quá khứ thì làm sao không có giáo pháp của đức Phật mà ông Phật Thích Ca phải đi tìm từng ông này đến ông kia, rồi phải bỏ đi, rồi tự mình đi phát triển ra một cái pháp tu hành?

Các con nghĩ: Đức Phật nói quá khứ có bảy vị Phật, phải không? Thế mà ông Phật phải đi tìm cái pháp để tu, nếu mà có bảy vị Phật thì tức là phải có cái giáo pháp chớ ? Sao lại có bảy người tu được mà lại không có giáo pháp để lại cho đời sau?

Lại là tu nào là nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, Không Vô Biên Xứ, rồi tu cái gì đủ thứ khổ hạnh. Ông Phật khổ hạnh đến cái mức độ mà còn da bọc xương, không còn gì hết, rờ da bụng đụng xương sống, rờ xương sống đụng da bụng, ngồi hết có nổi rồi, ông Phật chỉ còn nằm dẹp xuống đó mà thở thoi thóp như là sắp chết rồi. Nếu mà không may gặp cái cô chăn dê ở đó vắt sữa mà đổ cho ông Phật thì ổng cũng tiêu luôn rồi còn gì, còn gì tu?

Vậy thì có giáo pháp - mà tại sao không có cái giáo pháp của Đức Phật mà có bảy đức Phật ở quá khứ? Cái lý do gì không có? Mà ngoại đạo thì sáu cái giáo phái của tà giáo ngoại đạo, trong lúc đó lại bành trướng, lại phát triển rất lớn. Còn kinh sách của Phật giáo bấy giờ lại không có nữa, chỉ có ba bộ kinh Vệ Đà chớ chưa có bộ Áo (Nghĩa) Thư nữa, thì quý thầy nghĩ như thế nào?

Đâu phải đất nước Ấn Độ không có chữ nghĩa, mà có chữ nghĩa, lại là có những cái bộ kinh Vệ Đà lâu đời nhất ở trong cái đất nước đó. Thế mà Đức Phật ra đời thì đã có những kinh đó rồi, thế mà sao lại không có những kinh gì mà của bảy Đức Phật này đã tu thành tựu được như vậy, đều là bậc chánh giác?

Vả lại cái nữa, Đức Phật trong kinh nói: Đồng thời trong một lượt Đức Phật không có một bậc A La Hán mà lưu xuất hai người một lượt, thì đồng thời đâu có được! Các thầy thấy, không có được.

Bởi vì nếu mà đồng thời - mà bây giờ Đức Phật có giới thiệu có một đức giáo chủ ở chỗ nào đó, thì ở đại Ta Bà này có một đức giáo chủ, thì đồng thời một cái thời điểm trong cái không gian vũ trụ này đã có hai đức giáo chủ thì không thể có lưu xuất ra được một (lượt).

Kinh xác định quá rõ ràng, bài kinh Nguyên Thủy rõ ràng. Đức Phật xác định chỉ có một mà thôi chứ không thể hai. Cũng như vua Chuyển Luân Vương, chỉ có một vua Chuyển Luân Vương trong cái thời đại đó chớ không có thể có nhiều ông vua Chuyển Luân Vương ở trong cái thế gian này được.

Nghĩa là bây giờ ở trong cái thế giới mình, trên cái trái đất này hành tinh nó có nhiều nước, phải không? Mà chỉ có một ông Chuyển Luân Vương ra đời thôi chớ còn không phải nước khác có ông Chuyển Luân Vương được. Nếu có hai ông Chuyển Luân Vương này mà như vậy nó ngang nhau ổng đánh nhau chết hết còn cái gì?

(51:14) Cái kiểu đó các con hiểu. Bởi vì ông Chuyển Luân Vương này cũng có bảy cái báu thì ông kia cũng có bảy cái báu, mà đồng thời ra một lượt thì hai ông này choảng nhau thì bà con mình nhăn răng, méo miệng hết, đâu còn!

Cho nên Đức Phật nói đồng thời không có hai ông Chuyển Luân Vương được. Mà Đức Phật đã xưng mình trong cái bài Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, làm thầy trời và người.

Trời, người là cái ở trên hành tinh của chúng ta, và nơi đâu có những cái sắc thân con người đều là thầy của loài người. Mà chỗ nào cái thế giới vô hình - Tam Giới mà - cái thế giới vô hình, dù cõi trời hay cõi nào, vô hình ở đâu, bất kỳ ở chỗ nào cũng đều làm thầy hết. Vậy thì có một ông chứ sao lại có hai ông?

Đó thì như vậy là đời sau người ta không hiểu được cái ý đó, cho nên người ta gạnh thêm. Gạnh thêm thứ nhất là lịch sử sai, thứ hai là gạnh thêm như trong kinh mà nhắc ra vậy là sai hết.

Cho nên chúng ta là người có trí chớ đâu phải chúng ta ngu để mà người khác gạt chúng ta được! Chỉ có những người vô minh nói đâu nghe đó, làm tầm điên, tầm khùng, cuối cùng tu hành chẳng ra gì, tới chừng chết nhăn răng, méo miệng, nằm đó mê mờ cũng như là cái gì không biết gì hết.

Đó thì bằng chứng Thầy thấy hiện tiền là trải qua cái đời của Thầy thôi, chớ Thầy chưa nói những cái đời khác nữa, nhưng mà xét đến từ khi mà tất cả các đại đệ tử của Phật thị tịch hết rồi, thì Phật giáo vắng bóng rồi. Người ta chia ra làm hai mươi bộ phái là tiêu rồi đó, kể như là Phật giáo tiêu rồi đó, không còn nữa rồi.

Đó thì hiện bây giờ chúng ta thấy trong cái vấn đề đó nó cụ thể và rất rõ ràng. Cho nên chúng ta phải xét thấy được cái đường lối mà chúng ta hiện giờ tu hành. Tu hành làm sao mà chứng nghiệm được cái chúng ta làm chủ nè, làm sao mà chúng ta thức tỉnh được nè. Đó là những cái đặc biệt của Phật giáo.

Đó thì hôm nay Thầy giải thích như vậy để biết rằng: Tất cả những cái này là những người sau người ta thêm bớt, người ta làm ra, rồi người ta đặt ra nào Liên Trì Thư Xã, rồi người ta dạy đủ cách thức niệm Phật chớ không phải có một lối niệm Phật đâu, không phải niệm Phật thường đâu. Người ta niệm Phật thế này không được, người ta đặt niệm Phật cách khác đủ mọi loại.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

664- KINH ĐỊA TẠNG

  664- KINH ĐỊA TẠNG (01:23:39)  Phật tử  7: Kính bạch Thầy! Con xin hỏi, khi thân người vừa mới mất thì sẽ thác sanh vào một cõi lành hoặc ...