622- CÁC PHÁP MÔN DẪN VÀO THẾ GIỚI TƯỞNG
(20:06) Bây
giờ cái câu hỏi khác:
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Người muốn
tu chứng thì phải ly 18 loại hỷ tưởng khỏi thân tâm của mình.”
Như Thầy đã
dạy, nó có 18 loại hỷ tưởng mà các thầy các con đã chép rồi đó, đã biết 18 loại
hỷ tưởng rồi. Mà cái người mà tu Thiền Đông Độ thì người ta bị rơi vào cái
Không Vô Biên Xứ đó, Hư Không Vô Biên đó, khi mà cái ý thức thanh tịnh thì họ bị
rơi vào đó rồi.
Cho nên ở
đây câu hỏi này thì nó cũng nhằm vào cái chỗ Thiền Đông Độ chớ không phải gì
khác hết. Bởi vì cái chỗ này là cái chỗ mà chúng ta rất cần để mà xả ly 18 loại
tưởng để chúng ta vượt qua, chớ còn không thì chúng ta cũng nằm đó mà chịu chết
như các Thiền Đông Độ mà thôi.
“Vậy mà
có một số đạo sư” -
đây là câu hỏi kế đây, câu hỏi trong cái câu hỏi đó, nghĩa là chúng ta lìa 18
loại tưởng:
“Vậy mà
có một số đạo sư đã dùng 18 loại hỷ tưởng này để dạy cho các đệ tử của mình. Lấy
sắc tưởng, hương tưởng, thinh tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng v.v, khiến
cho người tu hành mê mờ không phân biệt đâu là Chánh Pháp của Phật, đâu là tà
thuật của ngoại đạo, sống dở chết dở, đạo không ra đạo, đời không ra đời, tu tập
nhiều năm mà chẳng đi đến đâu và chẳng đạt mục đích gì. Hiện giờ có rất nhiều học giả
cũng đang ở trạng thái này, ngỡ rằng mình đang hòa đồng với vũ trụ.
Vì lợi
ích chung cho mọi người, con xin Thầy chỉ dạy để mọi người sớm giác ngộ, không
bị lầm lạc trên đường tu tập, cứu mình ra biển khổ, và cũng không uổng phí cả
cuộc đời.”
Đáp: “Từ pháp môn Tịnh Độ đã
biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín, cúng bái tụng niệm, cần an, cầu siêu
v.v. Loại pháp môn này hướng dẫn hành giả vào thế giới sắc tưởng. “
Đó thì, bây
giờ nói vè 18 loại tưởng, hỏi Thầy 18 loại tưởng, rồi đưa ra một số người dùng
các loại tưởng để tu, thì Thầy chỉ định cho thấy như Tịnh Độ Tông, người ta
dùng sắc tưởng mà người ta làm cái pháp môn để người ta hướng dẫn người khác đi
vào cái thế giới đó.
(22:30) “Đến
Thiền Tông đã biến Phật giáo thành một tôn giáo hữu ngã.”
Có ngã tức
là Phật Tánh đó, chấp chặt một con người nào cũng phải có Phật Tánh hết, cho
nên đó là cái ngã rồi.
“Loại
pháp môn này hướng dẫn hành giả vào thế giới pháp tưởng.”
Đó cho nên
nó có cái tưởng nó ra, cho nên nó lạc vào Hư Không Vô Biên Xứ đó, nó bị lạc vào
trong đó mà nó trở thành cái pháp tưởng. Nó lấy cái pháp tưởng mà làm cái thế
giới nó để tu tập.
“Cho
nên nó có cái sự “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu”.”
Những cái
danh từ của Thiền Đông Độ nó dùng đó, nó chỉ để cho chúng ta thấy được. Trong
18 loại tưởng này, thì Tịnh Độ nó dùng cái sắc tưởng mà nó đi vào, còn Thiền
Đông Độ thì nó dùng cái pháp tưởng mà nó đi vào, cho nên nó có mới cái những
cái danh từ của nó. Còn Tịnh Độ thì nó có những cái danh từ riêng của nó, “cầu
vãng sanh Cực Lạc”. Đó. Còn ở đây, thì nó đi vào cái chỗ không phải cầu nữa,
mà “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu”.
“Giáo
lý Nguyên Thủy của Đức Phật đã xác định không dạy điểm khởi thủy của con người,
thế mà Thiền Tông có điểm khởi thủy hoàn nguyên.”
Hoàn nguyên
là mình trở về cái gốc của nó chớ gì? Đó, phản bổn, là trở lại cái gốc, hoàn
nguyên, trở về cái nguồn gốc của nó, đó thì cái câu “phản bổn hoàn nguyên”. Mà
đạo Phật xác định rằng cái khởi điểm của con người không có, vậy thì nó trở về
cái khởi điểm nó là cái chỗ nào mà gọi là gốc, gọi là cái nguyên gốc, cái
nguyên thủy của nó?
Đạo Phật đã
xác định, trong bài Mười Hai Nhân Duyên, Đức Phật đã xác định rõ ràng. Và trong
cái Giáo án của Thầy đã dạy rồi đó, thì các thầy cũng thấy rằng: Con người từ
nhân quả sanh ra và chết đi cũng trở về nhân quả.
Thì bây giờ
chúng ta “phản bổn hoàn nguyên” trở về nhân quả, thì có lý do gì? Thì nhân quả
nó có giải thoát không? Nó là thiện ác mà làm sao giải thoát đâu? Cho nên trở về
đó thì cũng như là cái người bình thường không tu thì cũng trở về đó vậy!
Cho nên nếu
mà nói đạo Phật có cái khởi điểm thì nó không phải là đạo Phật. Vì có khởi điểm
tức là có cái ngã chấp, còn không có cái khởi điểm tức là không có ngã chấp.
(24:47) Cho
nên đạo Phật xây dựng cái giáo lý của mình, cái giáo lý duyên khởi thì nó là một
cái vòng tròn, cho nên nó không có một cái khởi điểm, nó không có cái điểm khởi
đầu.
“Thiền
Tông lạc vào pháp tưởng mà không biết, cảm thấy mình hòa đồng trong vũ trụ hay
là “phủ trùm vạn hữu”. Theo Phật giáo, người tu hành phải đạt được mục đích.”
Nghĩa là cái
người tu hành phải đạt được mục đích, chớ không phải là hòa đồng vũ trụ hay là
“phủ trùm vạn hữu”. Mà đạt được cái mục đích gì? Cái mục đích đó là mục đích
gì? Cho nên Thầy ghi:
“Theo
Phật giáo người tu hành phải đạt được mục đích, mục đích đó là gì?”
Đó thì bây
giờ đê trả lời cái câu hỏi mà tự Thầy hỏi đó, mục đích đó đó:
“Làm
chủ sanh, lão, bệnh, tử. Đó là bốn cái nỗi khổ của con người.”
Cho nên ở
đây chúng ta thấy cái sự tu tập của mình, là mình nhắm vào cái mục đích làm sao
làm chủ được cái cuộc sống của mình, làm sao làm chủ được cái tuổi già của
mình, làm sao làm chủ được cái bịnh tật và đến khi mà mình chết, làm sao mình
làm chủ, đừng có để khổ quá khổ.
“Xưa Đức
Thế Tôn đã tuyên ngôn bốn câu kệ, khi mình đã đạt được mục đích:”
Bốn câu kệ
nó như thế này:
“Thiên
thượng thiên hạ
Duy
ngã độc tôn.
Nhất
thiết thế gian
Sanh
lão bệnh tử.”
(26:19) Đó
là Hán tự thì Thầy tạm dịch để cho quý thầy và các con hiểu. “Thiên
thượng thiên hạ” có nghĩa là trên trời dưới trời. “Duy ngã độc tôn” có nghĩa là
chỉ có mình ta. “Nhất thiết thế gian” - hết thảy trong thế gian này. “Sanh lão
bệnh tử” - ta là người vượt qua sanh, lão, bệnh, tử, nghĩa là ta là người làm
chủ được sanh, lão, bệnh, tử.
Thì cái mục
đích đã đạt được thì còn tu cái gì nữa? Đó thì, cái mục đích của đạo Phật là
như vậy, chớ có phải cái mục đích của đạo Phật là để trở về “phản bổn hoàn
nguyên”, để “phủ trùm vạn hữu”. Cho nên Thiền Tông nó đi lạc, nó không đúng với
cái mục đích của đạo Phật rồi.
“Mục
đích Thiền Tông là “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” để làm gì, với ý
nghĩa của cuộc đời này?”
Khi mà chúng
ta trở về với cái nguồn gốc của chúng ta, phủ trùm vạn hữu như vậy, để nó có
cái lợi ích gì cho cái đời sống của chúng ta, hay là chúng ta cũng còn tham sân
si, giận, phiền não?
Cho nên dù
là chúng ta có phản bổn hoàn nguyên, có phủ trùm vạn hữu, thì tâm tham chúng ta
cũng còn. Chúng ta cũng thích nằm trên nệm êm, giường cao rộng, chúng ta cũng
thích mặc đồ sang đẹp, chúng ta cũng thích ăn uống phi thời. Thì như vậy rõ
ràng là chúng ta có giải thoát được chưa? Đời sống chúng ta cũng còn như cái đời
sống của phàm phu.
Thì như vậy
có “phản bổn hoàn nguyên” đi nữa, thì chúng ta vẫn là một con người tầm thường
chớ cũng không giải thoát được gì.
“Nếu
“phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” mà làm chủ được sanh lão bệnh tử thì
cũng nên tu tập.”
Nếu mà bây
giờ chúng ta “phản bổn hoàn nguyên” nè, mà “phủ trùm vạn hữu”, mà bây giờ chúng
ta làm chủ được cuộc sống nè, thì cuộc sống người tu sĩ ba y một bát, sống cái
đời sống không còn có một cái vật gì, xả hết. Trái lại bây giờ những cái người
mà tu Thiền Đông Độ thì họ không có như vậy đâu. Cuộc sống của họ hoàn toàn đầy
đủ lắm chớ không thiếu đâu.
Rồi kế đó
đó, già họ không làm chủ được nè. Họ không biết cách làm sao làm chủ được! Rồi
bệnh nè, họ cũng không biết làm chủ đâu, họ chỉ bảo: “bệnh thì cứ bệnh,
kệ nó, mình cứ đừng có dao động tâm của mình là được!” Thì như vậy là
rõ ràng là cắn răng chịu đựng đau chớ không phải.
Rồi đến chết
thì, “Chết mặc chết, tử mặc tử, ăn thua gì, mình Phật Tánh cứ còn đó chớ
đâu phải là mất mát gì đâu! Chết cái thân chớ đâu phải là chết Phật Tánh đâu mà
sợ!” Cho nên họ nói như vậy chớ sự thật ra họ không có làm chủ được
cái chết.
Cho nên vì vậy
mà chúng ta thấy, nếu mà “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” mà làm chủ được
sanh lão bệnh tử, thì đó là cũng là cái mục đích của đạo Phật đi.
Đằng này, nó
không nhằm được cái mục đích đó, do đó nó không thể giải quyết được bốn cái khổ
này, thì không giải quyết được bốn cái khổ của đời người. Cho nên chúng ta
không có tu tập.
“Nhưng
nhìn lại đời sống của thiền sư,”
Nghĩa là các
ngài nói, mà nó được như vậy thì chúng ta nên tu, nhưng mà bây giờ chúng ta muốn
xét được cái đó có phải là làm chủ được sanh lão bệnh tử không, cho nên chúng
ta mới nhìn lại cái đời sống, tức là chúng ta quan sát lại các vị tu thiền coi
họ có làm chủ được chưa?
Đó bây giờ
chúng ta mới nhìn lại. Khi mà nhìn lại cái đời sống của thiền sư thì chúng ta
thấy họ chưa làm chủ được cái cuộc sống, cho nên họ còn ăn uống phi thời, còn
chạy theo vật chất, còn ham ngủ.
“…còn
đang đắm chìm trong vật chất thế gian. Đời có gì thì thiền sư có nấy.”
(29:35) Nghĩa
ở ngoài đời bây giờ người ta có gì, thì (mình) có nấy, người ta có xe hơi thì
mình cũng có xe hơi. Người ta có cái gì thì mình có nấy.
“Cho
chí đến như cái ăn, cái ngủ, thiền sư còn ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời,
giường cao nệm ấm, áo quần sang đẹp v.v…”
Đó là họ
chưa có ly mà, họ chưa cái xả mà, họ còn sống như thế gian. Nhưng mà họ nghĩ rằng
cái đó là cái mình đừng có chấp dính nó thôi, mình ăn mặc sang đẹp chớ không chấp
dính nó đâu thôi. Sự mà thật ra, mình nói mình một lý, nhưng mà mình đã mang mặc
nó thì tức là mình bị dính mắc chớ làm sao mà mình nói rằng mình hết dính mắc?
“Sanh
mà không làm chủ được tức là chưa có ly dục ly ác pháp, thì làm sao mà làm chủ
được già, bệnh, chết? Thì “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” có lợi ích
gì? Chỉ chẳng qua thiền sư lạc vào pháp tưởng mà không biết, nên rất đáng
thương. Từ bao thế kỷ, bao thế hệ đã lầm đường lạc lối, uổng phí cuộc đời tu
hành.
Thiền
sư cứ nghĩ rằng mình kiến tánh là thành Phật, Phật thì có sẵn, chỉ cần thấy mà
thôi, chẳng cần tu gì hết, chỉ vì chưa thấy tánh nên phải tu để thấy. Từ pháp
“tri vọng”, “tham thoại đầu”, “tham công án” đều là pháp tu để kiến tánh. “
Nghĩa là tu
cái đó để mình nhận ra cái tánh. Cho nên có người thì vừa thấy hoa đào nở thì họ
cười, có người thì vấp té ngộ đạo, đó là thấy tánh của họ. Đó cho nên họ tu tập
những cái tu tập của họ để mà ức chế cái Tầm Tứ, để mong cho các ngài ngộ được
cái tánh Phật.
(31:19) Cho
nên khi mà ngộ được cái tánh thì thôi, không có gì hết. Chớ họ đâu có tu mà ly
dục ly ác pháp đâu? Họ đâu có làm cho cái tâm họ hết tham sân si đâu? Mà họ chỉ
làm sao cho mình thấy tánh. Mà thấy tánh thành Phật thôi thì, đã thành Phật rồi
thì đâu còn tham sân si, cho nên họ nghĩ vậy.
Cho nên vì vậy
mà họ nỗ lực họ tu “tri vọng”, họ “tham thoại đầu”, “tham công án” để cho họ kiến
tánh mà thôi. Cho nên thường thường họ tham những cái đó, bỗng dưng nó “bùng vỡ”,
tức là bùng vỡ gì? Là họ đã kiến tánh, tức là họ nhập vào cái thể tánh đó.
“Còn
pháp tu ly dục ly ác pháp thì trong kinh Đại Thừa dạy, thấy các pháp là không,
thấy các pháp là hư huyễn.”- hay là huyễn giả, không thật.
Trong kinh Đại
Thừa thì có cách thức tu ly dục ly ác pháp, có cách thức tu. Cho nên thấy các
pháp đều là không, như Bát Nhã, thấy các pháp đều là hư huyễn, thì đó là kinh
Duyên Giác, không thật, đó là kinh Duyên Giác. Thì đó để làm gì? Bởi vì, khi mà
người ta chửi mình, thì mình thấy nó là huyễn giả, nó thấy là không, cho nên
mình không tức giận. Đó là cái cách thức ly dục ly ác pháp của nó.
Cũng như bây
giờ tâm mình khởi ham muốn một cái vật gì đó, mình nói mọi vật đều là huyễn giả,
có gì mà phải ham muốn. Do đó cái tâm nó không ham muốn nữa. Đó là cách thức tu
để ly dục ly ác pháp của Đại Thừa kinh.
Chớ còn Thiền
Tông thì không có đâu. Thiền Tông không có pháp nào mà ly dục ly ác pháp hết.
Chỉ có Đại Thừa thì nó còn có một ít ở trong những cái tư tưởng của giáo lý
Nguyên Thủy, nó có rút tỉa được một số cái giáo lý Nguyên Thủy ở trong Đại Thừa.
Tức là nó còn giữ lại cái bản chất Nguyên Thủy của Phật giáo ở trong cái kinh
sách Đại Thừa một chút đó.
Cho nên nó
có cái tu tập về ly dục ly ác pháp. Nhưng những cái tu tập đó nó không làm cho
nó sạch thật sạch cái tâm của nó đâu, nó không sạch đâu. Dường như là cái pháp
đó là cái pháp trốn chạy, chớ không phải là. Thấy mọi vật đều là huyễn giả để
mình trốn chạy cho cái tâm mình nó đừng có giận hờn, đừng có ham muốn thôi, chớ
sự thật ra nó đang ham muốn rất nhiều. Tránh né nó , gọi là tránh né.
Cho nên hầu
hết là một số người tu mà về cái pháp “không” - “thấy các pháp là không” đó,
“ngũ uẩn giai không” đó, thấy các pháp đều là huyễn giả đó, thì họ có giảm bớt,
họ có sống cái đời sống an ổn thật. Nhưng mà cái tâm cho thật sạch đó, thật hết
ham muốn thì chưa hết, chưa có người nào hết. Nghĩa là hiện giờ thì chưa thấy
người nào hết.
“Những
pháp dạy trong kinh Đại Thừa chỉ có pháp lìa mà chưa có pháp đoạn.”
Đó Thầy ở
đây Thầy phân tích rất rõ mà. Đó là cái lối nó lìa, nó ly ra, nó lìa ra thôi,
nó lìa các pháp thôi, nhưng mà nó chưa sâu, cho nên nó chưa có pháp đoạn.
(34:07) “*Vì
thế thiền sư có giảm bớt tham sân si nhưng không đoạn dứt được. Vì kinh sách Đại
Thừa và Thiền Tông không có pháp hành đoạn dứt nên đối với đời sống”* - đời
sống tức là sanh y đó - “thiền sư chưa làm chủ tâm mình, còn chạy theo
ngũ trần.”
Tức là chạy
theo sắc thanh hương vị xúc pháp đó, còn chạy theo ngũ trần đó.
“Cho
nên người muốn tu hành giải thoát khỏi sanh lão bệnh tử mà tu theo kinh sách Đại
Thừa và Thiền Tông thì cũng như người khát nước mà uống nước muối.”
Đó là cái chỗ
mà Thầy đem một cái ví dụ để thấy rằng, muốn giải thoát mà tu theo cái kiểu như
vậy thì như người khát nước mà lấy nước muối mà uống. Đây là một cái sự thật chớ
không phải là bài bác họ. Nhưng mà các thầy cũng như các con suy ngẫm lời Thầy
nói và lời của Thầy so sánh ở đây để thấy đó là một cái sự thật như vậy.
Vì trải qua
một cái thời gian mười mấy hai chục năm, nhiều người đi theo Thiền Đông Độ, họ
tu với Hòa thượng Như Luật, hoặc là Hòa thượng Thanh Từ, thì bây giờ xét lại họ
đã được những gì, và họ đã làm chủ được những gì? Thì chúng ta xét rồi chúng ta
suy ngẫm lời Thầy nói có đúng hay không?
Đừng tin ở lời
Thầy nói mà cứ xem xét những người đang theo các bậc Hòa thượng này tu hành các
pháp môn đó, rồi sẽ thấy. Có người tu cũng hai ba chục năm chớ không phải ít.
Rồi xem lại
những cái bậc thầy của họ, cái bậc mà đã giảng những cái pháp đó ra, xem coi họ,
đời sống họ có ly dục chưa? Có ly ác pháp chưa? Họ có làm chủ được cái đời sống
họ chưa? Hay họ còn đang đắm nhiễm qua cái hình thức khéo che đậy mà thôi, qua
cái lý luận khéo che đậy mà thôi, chớ sự thật ra thì họ còn đang sống ở trên
cái dục lạc đó.
“Đạo
Phật đã xác định: Con người do nhân quả sanh ra, chết đi trở về nhân quả. Do
nhân quả sanh ra thì làm sao có khởi điểm ban đầu của con người mà gọi là “phản
bổn hoàn nguyên”?
Kinh
sách Đại Thừa do ảnh hưởng Bà La Môn giáo mới có Đại Ngã và Tiểu Ngã. “
(36:15) Đó
thì, Bà La Môn giáo thì nó có xây dựng cái Đại Ngã, và cái Tiểu Ngã. Một con
người chúng ta là cái Tiểu Ngã và cái Đại Ngã thì nó rộng lớn mênh mông.
Ví dụ như mỗi
một con người là một cái Tiểu Ngã, và cái Đại Ngã như là cái biển mênh mông nước,
còn cái Tiểu Ngã như là một giọt nước. Khi một người mất đi rồi thì cái giọt nước
nó sẽ nhiễu vào trong cái Đại Ngã, nó hòa tan thì coi như không còn cái Tiểu
Ngã mà nó trở về với cái Đại Ngã, do đó nó mới có cái chỗ “phản bổn hoàn
nguyên” đó.
Đó là ảnh hưởng
của Bà La Môn giáo là kinh sách Đại Thừa.
“Kinh
sách Thiền Tông thì ảnh hưởng Lão Giáo mới có bản thể vũ trụ.”
Đó thì do
Lão Giáo nó mới có những cái câu ở trong kinh Nam Hoa (Đạo Đức Kinh) nói “Đạo
khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh” đó, cái câu của Lão
Tử viết ở trong cái cuốn Kinh Nam Hoa (Đạo Đức Kinh) đó .
Thì cái đó
cái chỗ bản thể đó nó không tên, không tuổi, không gì hết. Ai có tên, có tuổi,
có hình, có dáng thì nó không phải là bản thể của vũ trụ. Cho nên Thiền Tông
thì nó ảnh hưởng Lão Giáo nó mới có cái danh từ, nó mới có những cái tên là “bản
thể vũ trụ”, nó mới có cái tánh, rồi cái thể, rồi cái Phật Tánh.
“Đối với
đạo Phật, những việc này chỉ là một hý luận. Một hý luận là một cái điều mà luận
chơi cho vui, chớ chẳng có ích lợi và thiết thực gì cho loài người.”
Nghĩa là cái
này nó chẳng cái đem đến cho chúng ta có cái lợi lạc giải thoát cho chúng ta một
cái gì hết. Cho nên Đức Phật gọi cái này là cái hý luận.
Và trong sáu
mươi hai lập luận của ngoại đạo ytg cái thời Đức Phật thì nó cũng có xây cái bản
thể vũ trụ này, bởi vì ở trong đó nó Bà La Môn mà, nó có Đại Ngã và Tiểu Ngã.
Cho nên nó cũng đã có rồi, vì vậy mà Đức Phật gọi cái đó là hý luận.
Hý luận, lập
luận chơi cho vui, cao thấp, hơn thua cho vui chơi, chớ còn không có cái lợi
ích thiết thực. Đối với đạo Phật thì cái gì thực, còn cái hý luận thì không có
đùa chơi như vậy.
“Vì thế
Đức Phật chỉ thẳng cho mọi người biết có 18 loại tưởng. Tịnh Độ Tông chiếm sắc
tưởng, làm cứu cánh của mình, Thiền Tông chiếm pháp tưởng làm cứu cánh của
mình.”
Đó hai cái
Tông này, thì họ chiếm một cái tưởng để họ làm cái chỗ cứu cánh của họ. Xác định
để chúng ta thấy cho rõ và đồng thời sau này thì quý thầy cứ về suy ngẫm lại những
cái điều mà kinh điển Phật đã chỉ cho chúng ta biết mười tám cái loại tưởng. Và
đồng thời ở đây Thầy xác định cho biết rằng cái Thiền Tông nó chiếm cái tưởng
nào và cái Tịnh Độ Tông nó sẽ chiếm cái tưởng nào.
“Do thế
lấy tưởng mà cho rằng Phật cũng như người ngu, nghe vang mà tưởng tiếng, thấy
bóng cho là hình, đó là hình thức điên đảo vô minh, nên tu đời này sang đời
khác cũng chẳng ra gì.”
Đó thì, mình
nghe tiếng vang mình cho là tiếng, thì đó là mình ngu. Mình nhìn thấy hình bóng
mà mình cho đó là hình, là thật, thì đó là mình sai. Bởi vì tưởng nó chỉ là cái
bóng dáng mà thôi, chứ nó không có thật. Dù là pháp tưởng, dù là sắc tưởng, nó
cũng đều là bóng dáng mà thôi, nó không thật.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét