372- 2) XẢ THINH TƯỞNG
(07:18) Về cái phần thứ hai gọi là:
2. Thinh tưởng là âm thanh do ảo giác sanh ra, không phải là chánh pháp mà là tà pháp. Ta đừng lưu ý đến âm thanh ấy.
Đây là câu
ám thị đây:
“Thanh
tưởng là một loại âm thanh do tưởng uẩn sanh ra, nó là loại ma khiến ta mất
Chánh Định, hãy đi đi! Tâm không được chú ý đến nó, hãy bám chặt tụ điểm và hơi
thở!”
Đó là cái
câu ám thị để chúng ta nhắc để mà chúng ta bám cho chặt cái hơi thở, để mà lìa
xa cái âm thanh đó.
Hầu hết là
có một số quý sư như nhà sư Achah Chah đã nghe âm thanh nổ ở trong đầu của mình
và nghe những cái trạng thái thay đổi ở trong thân tâm của mình rút vào và nhả
ra, đó là những cái trạng thái thuộc về thinh tưởng, cũng như là những cái trạng
thái đó gọi là xúc tưởng.
Mà ngài tưởng
đó là cái chỗ nhập định của ngài, cho nên cuối cùng thì thay vì ngài tu theo Bốn
Thiền của Phật thì ngài phải nhập Tam Thiền, Tứ Thiền, đằng này ngài tới đó
ngài tưởng rằng ngài đã thành tựu được đạo cho nên ngài mới đem ra ngài quán
đi, ngài dùng cái quán đi và ngài dạy người ta ở trên cái cuốn sách mà gọi là
“Mặt hồ tĩnh lặng” đó, thì ngài dạy người ta tu thiền để tự nhiên mà vào.
Trong khi Phật
dạy chúng ta phải thiện xảo mà nhập định, mà thiện xảo an trú trong định, thiện
xảo sống trong định, rồi thiện xảo xuất định chứ không phải để tự nhiên mà vào.
Cho nên, qua
những cái bài ngài dạy ở trong cái cuốn sách của ngài và cái hồi ký tu hành của
ngài thì đương nhiên là ngài chỉ mới có ở trong cái chỗ diệt Tầm Tứ, chưa được
đi qua cái lộ trình của Tam Thiền, mà ngài đã cho rằng mình đã nhập được thiền
định.
(09:12) Cho
nên, đó là cái sai của người sau, không thấy được cái lộ trình của Bốn Thiền nó
rõ ràng và cụ thể, cho nên cứ tưởng rằng mình đã đạt được.
Vì vậy có một
nhà sư ở bên Miến Điện, ngài tu nương vào cái hơi thở, thấy cái bụng mình phình
lên xẹp xuống rồi cứ theo đó mà nhắc phình lên xẹp xuống, thế rồi sau thời gian
nhiếp tâm ức chế vọng tưởng bằng cách dùng cái hơi thở như vậy rồi ngài sanh ra
một cái pháp gọi là “Minh Sát Tuệ”, để rồi từ đó hướng dẫn người sau này cũng
chẳng ai biết thiền định của Phật như thế nào đúng, như thế nào sai.
Bởi vì ngay
từ lúc đầu mà chúng ta tu hành để ly dục ly ác pháp thì chúng ta đã dùng những
cái pháp quán, chúng ta đã suy tư, thấu triệt để dùng những cái tri kiến và đến
cái tri kiến giải thoát để phá vỡ Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử, đập xuống tất cả
để cho lậu hoặc không còn nữa, do thế chúng ta mới ly dục, ly ác pháp mà chúng
ta mới nhập được Sơ Thiền.
Chớ không phải
đợi khi mà có định rồi thì bắt đầu từ cái chỗ mà hết Tầm Tứ rồi thì mới dùng
cái pháp quán, điều đó là cái sai của đạo Phật.
Ngay từ lúc
đầu chúng ta đã thân cận bậc Thánh, thân cận các pháp Thánh, thân cận các bậc
chân nhân, thân cận các pháp chân nhân, do đó chúng ta có một cái tri kiến,
chúng ta hiểu biết cái pháp của chân nhân, cái pháp Thánh như thế nào.
Từng đó
chúng ta mới đem những cái pháp này ra mà chúng ta quán, trạch về cái Thân, Thọ,
Tâm, Pháp của mình, thân Ngũ Uẩn của mình. Tất cả các pháp ở trong thế
gian này vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào, từ đó chúng ta phát triển
thêm cái tri kiến giải thoát của chúng ta, làm chúng ta thấu suốt được cái lý
vô thường, vô ngã của nó, cái lý mà khổ của nó rất là sự thật, không còn
sai nữa.
Do đó mà
chúng ta mới phá vỡ cái lậu hoặc của tâm của mình, từng đó chúng ta mới thấy rằng
cái con đường mà quán xét - không phải đợi chúng ta diệt Tầm Tứ, ức chế tâm
mình hết vọng tưởng rồi mới là quán xét, không phải điều đó đâu.
Cho nên, một
nhà thiền học ở Trung Hoa, ngài Thiên Thai, ngài mới đẻ ra cái pháp môn “Lục
Diệu Pháp Môn”, ngài mới nghĩ rằng sổ, tuỳ, chỉ, quán, hoàn, tịnh.
Nghĩa là ngài phải sổ tức để mà ức chế cái tâm của ngài, rồi bắt đầu ngài nương
theo hơi thở để mà chỉ Tầm và Tứ, do đó ngài được chỉ, từ cái chỗ chỉ đó ngài mới
quán ra, do đó ngài cũng đi sai.
Vì do cái sự
ức chế tâm mà quán ra thì chúng ta sẽ trở thành - cái ức chế tâm đó nó trở
thành cái pháp tưởng và cái pháp tưởng quán ra tưởng là mình đã xong.
Không ngờ
ngay từ lúc đầu cái vị tu sĩ của đạo Phật, Đức Phật đã bảo đi ra cái đồng mả mà
xem cái thây ma sình hôi thối rồi mới trở về đặt cái niệm thây ma đó trước mặt,
rồi tưởng ra, quán cái thây ma đó để mà lật bề trái của cái thân của chúng ta,
cái thân và cái tâm của chúng ta xem nó là bất tịnh thật sự như vậy.
Như vậy làm
cho chúng ta mới xa lìa cái ngã, làm chúng ta mới không còn chấp cái thân này
là thật, cho nên chúng ta mới xả bỏ nó đi, làm cho lậu hoặc chúng ta mới quét sạch.
(12:25) Chớ
đâu phải Phật dạy chúng ta phải ức chế tâm cho hết vọng tưởng rồi, chỉ rồi bắt
đầu mới quán, thì như vậy các ngài mới đẻ ra cái thiền Minh Sát Tuệ này thì
đúng, nhưng mà bây giờ đẻ ra như vậy là chúng ta đã thấy lệch lạc cái con đường
của Phật pháp rồi.
Và thiền sư
của Trung Hoa, ngài Thiên Thai cũng đã đi làm lệch lạc mất cái con đường của đạo
Phật rồi, không đúng.
Ngay từ lúc
đầu Thầy dạy cho quý thầy tu phải đặt cái niệm để mà quán, tu từ cái tỉnh thức
để cho quý vị đặt cái niệm nó mới sáng suốt ra, nó làm cho quý vị phá đi từng
cái mảnh nhỏ của lậu hoặc ở trong thân tâm của quý vị, từ đó quý vị mới có ly dục,
ly ác pháp, cho nên tâm quý vị mới được thanh thản, mới được vô sự, tiến tới
thì quý vị mới tịnh chỉ Tầm Tứ, mới nhập Nhị Thiền.
Đây chưa có
gì thì các vị cứ lo tịnh chỉ Tầm Tứ để nhập Nhị Thiền, mà trong khi Sơ Thiền
thì ê chề. Nhìn cuộc sống của quý vị thì chạy theo dục lạc, ăn uống một ngày
hai ba bữa, ngủ nghỉ thì không đúng giờ giấc.
Còn ham ăn,
ham ngủ, còn ham chùa to, tháp lớn thì thử hỏi quý vị làm sao mà ly dục ly ác
pháp được? Mà gọi là ức chế tâm mình để rồi minh sát ra để làm cho sự giải
thoát, thì như vậy là đi ngược lại con đường của đạo Phật mất rồi, đâu có đúng
cái hành của đạo Phật.
Cho nên,
nhìn chung Phật giáo trên thế giới bây giờ không có ai chứng đạt được sự giải
thoát thật sự, là tại vì sống không đúng cách giới hạnh của Phật, giới đức của
Phật, cho nên cái người tu nó đã lệch mất, vì vậy mà con đường giải thoát nó
cũng bị chôn vùi.
Do cái sự
thinh tưởng này mà người ta tưởng rằng mình đã chứng đạo. Do ngồi thiền nghe âm
thanh, nghe trong đầu có tiếng nổ, nghe cả vũ trụ này như tan tành, tất cả những
cái sự thay đổi trong thân của chúng ta như vừa rồi thầy Thiện Thuận có nói rằng
nó sôi lụp bụp ở trong thân, nó sôi lụp bụp như vậy, tất cả những cái điều này
hoàn toàn thuộc về thinh tưởng.
Khi mà chúng
ta nghe có những cái tiếng động mà ở trong thân của chúng ta xảy ra điều này thế
kia thì chúng ta biết nó là thinh tưởng.
(14:32) Khi
ngồi thiền nhiếp tâm không còn vọng tưởng mà lại nghe cái tiếng động ve ve
trong tai chúng ta, hoặc nghe tiếng Đức Phật Quan Thế Âm dạy pháp chúng ta phải
tu như thế này, phải phản văn tự tánh như thế kia, thì cái này toàn là cái loại
ma, không phải thật là Quan Âm hay là tổ hay là ai dạy chúng ta hết. Đó toàn là
thinh tưởng, do cái thinh tưởng của chúng ta mà phát ra âm thanh đó mà thôi,
chúng ta hãy dẹp đi.
Có nhiều người
họ lại còn dùng cái pháp tưởng, họ ngồi im lặng rồi họ đặt một cái câu kinh nào
đó mà họ không hiểu, họ mới tự hỏi: “Vậy cái câu kinh này nghĩa như thế
nào?”
Rồi họ ngồi
im lặng đó, bắt đầu từ ở trong cái pháp tưởng xuất hiện ra, do đó họ hiểu được
cái lý của cái câu này, hay hoặc là một công án câu đó, rồi do đó họ nói rằng họ
đã ngộ và có cái trí tuệ. Đây là cái trí tuệ ma, cái trí tuệ của pháp tưởng, chớ
không phải là của cái người mà có trí tuệ thật của đạo Phật.
Đó thì gặp
cái trường hợp thinh tưởng thì quý thầy hãy dùng cái pháp hướng này mà đuổi nó
đi, tống cổ cho nó ra khỏi, đừng có theo nghe âm thanh đó mà ngồi đó mà hưởng
cái âm thanh đó thì nó sai. Đừng có cho âm thanh đó là đúng, đó là cái loại ma
mà chúng ta cần phải vượt qua.
Vì vậy mà Phật
gọi là ly hỷ mà trú xả. Bây giờ chúng ta trú xả là trú ở đâu? Tức là chúng ta
phải trú ở cái hơi thở của chúng ta để mà bám chặt đó, để mà vượt qua tất cả những
cái trạng thái xảy ra của sáu cái loại tưởng này.
Nó làm cho mỗi
trạng thái đến làm chúng ta có cái tâm vui mừng ở trong đó, có những sự vui mừng
đó, cho nên Phật gọi là ly hỷ - ly cái trạng thái mừng đó, tức là sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp đó. Chớ không phải là ly cái mừng mà ly cái trạng thái tưởng
đó, cái trạng thái làm cho chúng ta có cái niềm vui mừng ở trong đó.
Cho nên, Đức
Phật gọi là ly hỷ mà nhập Tam Thiền. Đó, ly hết tất cả trạng thái này thì chúng
ta đã nhập Tam Thiền, còn nếu mà ly chưa hết thì chưa có nhập Tam Thiền. Cho đến
khi mà chúng ta ly đến mức cuối cùng mà không còn chiêm bao nữa, thì như vậy đó
là chúng ta mới trọn vẹn mà nhập Tam Thiền.
Còn một người
tu sĩ mà còn chiêm bao thì đừng có mong rớ tới Tam Thiền, chưa biết cái trạng
thái… (Mất tiếng)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét