613- TRÍ BÁT NHÃ
(11:15) Nhưng
tu hạnh nhẫn nhục phải được khai ngộ bằng một trí Bát nhã. Nếu không được khai
ngộ trí Bát nhã thì chúng ta không thể nào mà tu hạnh nhẫn nhục được. Vì sự sân
khởi của chúng ta nó rất bén nhạy và cũng như là điện chớp, khi nghe một lời
nói trái tai tự nhiên trong tâm chúng ta bừng dậy như một loàng điện chớp,
không thể nào chúng ta làm chủ kịp.
Muốn được vậy
chúng ta nhờ Thiện Tri thức tìm cách hỏi tới, hỏi lui, trắc qua, trắc lại, lúc
nào gặp chúng ta cũng đều có sự hỏi làm cho chúng ta lúc nào cũng phải tỉnh để
nhận ra pháp môn Bất nhị. Và như vậy thì chúng ta mới đủ sức tỉnh, rồi chúng ta
có đủ sức tỉnh thì chúng ta mới có thể ngồi lại.
Chúng ta có
sức tỉnh thì chúng ta mới có đủ khả năng ngồi lại mà không khởi niệm tưởng,
không khởi một ý niệm nào. Nếu chúng ta chưa đủ sức tỉnh thì chúng ta bây giờ,
hiện giờ chúng ta đang tịnh tỉnh ở trong mê chứ chưa hẳn là tỉnh. Vì cái tỉnh
đó chỉ trong vòng 5 phút là chúng ta không đủ cái khả năng mà để tỉnh nữa.
Vì vậy mà
ngoài 5 phút thì chúng ta bị vọng tưởng, lâu hơn nữa thì chúng ta sẽ bị hôn trầm.
Và nếu chúng ta có kiềm tỉnh đi nữa thì chúng ta cũng không đi sâu vào, vì thường
xuyên có những vọng tưởng, có những trạng thái thân động đậy làm chúng ta không
thể giữ tâm được. Vì như thế nào ?
Người điều
thân, tạo cho thân chúng ta ngồi suốt ngày, suốt đêm, từ tháng này, năm này,
năm khác, ngồi bất động không rung chuyển. Thế mà người tu thiền Đại Thừa, tu
trong hạnh nhẫn nhục thì chúng ta bất cần sự ngồi, bất cần thân động, chỉ làm
sao giữ tâm mình đừng phiền não, mình đừng đau khổ mà thôi.
Trái lại nếu
giữ Định trụ để cho tâm hồn mình được yên lặng trong tịch lặng thì do đó thân
phải bất động, nếu thân động thì tâm sẽ bị động liền. Và như vậy nếu chúng ta
ngồi lại mà giữ tâm bằng cách này, bằng cách khác thân chúng ta một lúc sau đó
bị mỏi mệt, chúng ta sẽ động đậy. Và sự động đậy làm chúng ta biết được sự động
đậy đó, cho nên chúng ta nhập sâu vào Định trụ không thể được.
(13:33) Vì
không phải chúng ta ngồi đây mà luôn luôn còn ở trong cái biết của cái thức này
mà gọi đó là sự Định trụ, điều đó điều sai. Chúng ta còn phải khi mất cái biết
này, để rồi chúng ta nhận ra cái biết mới, cái biết của trí Bát nhã, do đó
không phải cái biết của cái thức nữa, như vậy mới đúng. Mà nếu không được cái
thân bất động thì làm sao mà chúng ta nhận ra được cái biết của Bát nhã.
Hiện giờ
chúng ta có ngồi đây còn biết thân động, còn biết ở trong sáu căn của mình nghe
tiếng, thấy vật thì như vậy điều đó là còn tiếp xúc sáu căn, sáu trần. Thì do
đó cái biết đó là cái biết của sáu thức, như vậy không phải. Cái biết của Bát
nhã là cái biết nghe thì bằng tâm, mà thấy cũng bằng tâm chứ không phải nghe bằng
mắt mà thấy bằng tai nữa. Thì cái biết của Bát nhã không phải là cái biết của một
cái thức như chúng ta hiện giờ.
Cho nên từ ở
trong cái thức mà được lặng lẽ không khởi một niệm tưởng, một ý tưởng nào kéo
dài mãi thời gian đó, ít ra cũng từ 7 ngày, 10 ngày, 1 tháng, 2 tháng, cho đến
khi chúng ta còn một cái biết của trí Bát nhã thì chính lúc bấy giờ đó mới là
trí Bát nhã. Nếu chúng ta cứ nhận cái biết này là trí Bát nhã thì chúng ta quán
mãi suốt đời chúng ta cũng không bao giờ bứng sạch gốc tham, sân, si. Tại sao ?
Vì chúng ta sẽ ngồi đây mà giữ nó, một lúc nữa có đối tượng xảy đến làm chúng
ta phiền não. Dù là một giây phiền não thì cũng là có phiền não trong tâm hồn,
vì thế không phải là trí Bát nhã.
Trí Bát nhã
là một chất cứng rắn như Kim Cang, cho nên Kinh Kim Cang Bát Nhã gọi là Kim
Cang. Trí Bát nhã còn là chất Kim Cang cho nên mọi vật đụng vào trí đó đều tan
rã thành bụi cát, không thể nào mà tác dụng vào tâm hồn chúng ta có phiền não,
như vậy mới gọi trí Bát nhã, mới gọi người Kiến tánh. Còn hoàn toàn nếu chúng
ta hiểu cái trí Bát nhã đó bằng cách nào, mà khi có một vật gì, có một ngôn ngữ
nào, có một lời mạ nhục nào làm chúng ta có một khởi phiền não một chút xíu, một
sự sân khởi nào một chút xíu trong đó, cũng đều không phải là trí Bát nhã. Trí
Bát nhã là một chiến tuyến, là một thành lũy chắc chắn kiên cố bảo vệ Đức Phật
của chúng ta hoàn toàn không có đau khổ, không phiền não. Nếu không phải trí
Bát nhã thì không bao giờ bảo vệ Đức Phật chúng ta toàn vẹn trong ngai vàng của
Đức Phật.
Như vậy người
Tu sĩ của chúng ta muốn được trí Bát nhã thì chỉ có Thiền sư đào luyện hay hoặc
là luyện tập cho chúng ta từ giây, từ phút, làm chúng ta ngày ngày phải tỉnh,
lúc nào Thầy đi ngang qua gặp mình cũng hỏi câu này, câu khác, câu nọ để làm
cho mình sống trong những kiến giải, để đem những kiến giải đó biến trở thành một
sức phản ứng rất tự nhiên mà không kịp suy nghĩ. Thì đó chỉ là một cái giai đoạn
để chúng ta nhận rõ ràng bằng một cái thức, để rồi từ đó chúng ta sống để không
phiền não, đau khổ chứ chưa phải trí Bát nhã.
(16:56) Trí
Bát nhã khi nào được Thiền sư dồn chúng ta vào chân tường, chúng ta suy nghĩ mà
không suy nghĩ gì được nữa hết, chúng ta suy nghĩ mà không hiểu được gì nữa hết.
Chừng đó cái thời gian kéo dài ít ra cũng từ 1 tháng, 2 tháng hay hoặc là 3
tháng, 1 năm không chừng, để kéo dài cái sự suy nghĩ mà không hiểu được nghĩa
lý của sự suy nghĩ đó. Để rồi một ngày nào đó ở trong sự yên lặng đó, ở trong sự
tịch lặng suy nghĩ mà không suy nghĩ được thì bắt đầu bừng sáng lên cái trí Bát
nhã chúng ta soi sáng muôn vật. Như vậy mới gọi là chúng ta Kiến tánh, như vậy
mới gọi chúng ta thành Phật, còn nếu không thì không bao giờ chúng ta thành Phật
được.
Vì thế người
Tu sĩ chúng ta có những pháp môn đi vào. Nếu một vị Thiện Tri thức trắc nghiệm
xem coi căn mình ở trong pháp môn nào rồi mới trao cho vị đệ tử của mình tu. Một
người kiến giải lanh lợi thì Thiền sư phải dùng những sự lanh lợi tạo cho sự
lanh lợi đó đúng Chánh pháp, để cho người đó được một sức tĩnh giác, đứng trước
các đối tượng của vị đó được sự giải thoát. Chứ không phải trong cái sự kiến giải
này để cho chúng ta đi ra nói thiền, nói đạo, giảng kinh, giảng luật, để đem ba
cái ngôn ngữ ra mà phô trương cái tài hùng biện của mình. Như vậy mà để chúng
ta hiểu biết, để làm chủ tâm hồn giải thoát sự đau khổ của con người, chứ không
phải sự rèn luyện đó để chúng ta đem ngôn ngữ đó mà làm Thầy thiên hạ. Đem sự
hiểu biết nhanh nhẹn sắc bén đó để kịp thời chúng ta làm chủ tâm hồn mình không
phiền não.
Muốn được vậy
phải có Thiền sư hướng dẫn, phải có Thiền sư thường thường chọc tức, phải có
Thiền sư thường thường làm cho mình tĩnh giác, nếu không có Thiền sư thì không
bao giờ làm được. Và cái mà quan trọng nhất cho con đường Thiền này, là vị đệ tử
phải đặt hết niềm tin với bậc Thầy của mình. Thầy bảo mình một câu sống chết
cho đến khi nào mà mình thành công, thành tựu thì mới thôi. Nếu mà không thành
công thành tựu quyết chẳng bỏ câu nói của Thầy, đó là niềm tin Thầy hơn là mục
đích giải thoát của mình. Nhưng mục đích giải thoát của mình chính ở niềm tin đối
với Thầy, nếu thiếu một niềm tin mà tu thiền, e rằng đó không bao giờ thành tựu
được Phật pháp.
Muốn tu hành
được vậy người Tu sĩ phải được sự trắc nghiệm của bậc Thầy. Nếu mà mình thấp
quá thì bậc Thầy sẽ cho mình tu từ cái định của Tiểu Thừa để nhập dần vào được
tông chỉ. Sau khi ở tông chỉ sẽ được nuôi dưỡng ở tông chỉ cho đến khi bừng
sáng ra trí Bát nhã. Nếu không được sự hướng dẫn đó thì chắc chắn không bao giờ
đạt được đạo.
Nếu người
cao hơn mà được sự hướng dẫn bằng Tham công án Nghi tình thì cũng được Thầy trắc
nghiệm qua căn cơ của mình, thì Thầy mới trao cho mình một Công án bằng cách vô
tình Tham công án chứ không phải hữu tình. Nếu hữu tình, thời nay sợ e chúng ta
không đủ khả năng mà thành niệm Công án chớ không thể nào khởi Nghi tình.
Nếu một người
có lanh lợi, có trí lanh lợi thì nhiều kiến giải rất sâu sắc, vị Thiền sư cần
phải đào luyện vị này bằng sức tĩnh giác của họ, chứ không trao Công án cho họ
tu.
Nếu vị này
là một bậc có thể một nghe mà ngàn ngộ, thì ngay đó bảo vị đó ngồi lại mà tu.
Nếu vị này
mà còn ở trong tình trạng chưa đủ nhân duyên tu những Định trụ, thì vị này phải
tu Thập thiện và Năm giới.
Đó là những
bước đường của Phật giáo dạy chúng ta rõ ràng mà ngày xưa mà có phân ra làm năm
loại thiền.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét