649- SO SÁNH CÁC LOẠI THIỀN
(9:50) Kính
thưa quý vị Phật tử! Con đường tu theo đạo Phật hiện giờ có muôn vạn nẻo, nếu
chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời không có kết quả. Theo sử 33 vị
Tổ Sư Thiền Ấn Độ và Trung Hoa thì con đường thiền này do từ Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni chỉ dạy. Qua câu chuyện niêm phong trên núi Linh Thứu, Ngài Ca Diếp mỉm
cười thì chắc quý vị ai cũng biết rõ. Chúng tôi chẳng cần thuật lại làm gì cho
mất thì giờ. Ca Diếp tổ thứ nhất bên Ấn Độ truyền xuống đến tổ thứ 28 là Bồ Đề
Đạt Ma. Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa và làm Tổ thứ nhất tại đất nước này. Người
Trung Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi là Nhị Tổ Huệ Khả.
Bồ Đề Đạt Ma truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện an tâm. Chúng tôi
xin nhắc lại câu chuyện để quý vị thưởng thức.
“Thần Quang đến tìm Bồ Đề Đạt Ma để mong cầu Pháp tu hành. Lúc bấy giờ Bồ Đề Đạt Ma đang ngồi nhìn vách đá, nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động. Mãi đến hôm sau tuyết phủ lấp gối Bồ Đề Đạt Ma mới quay ra hỏi:
.Ngươi đến cầu gì mà phải khổ sở vất vả quá vậy?
.Thần Quang đáp: Con đến cầu pháp.
.Bồ Đề Đạt Ma: Ta có pháp gì để ngươi cầu?
.Thần Quang đáp: Bạch Hòa Thượng tâm con bất an.
.Bồ Đề Đạt Ma: Ngươi lấy tâm ta an cho.
.Thần Quang đứng lặng, nhìn quanh quất chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch: Bạch Hòa Thượng, tâm ở đâu, làm sao con lấy được.
.Bồ Đề Đạt Ma: Ta đã an tâm ngươi rồi đó!
Thần
Quang bèn quỳ xuống đảnh lễ Tổ nhận pháp an tâm”.
(12:30) Ngay
câu nói mà liền hiểu gọi là đốn ngộ. Như vậy Thần Quang đã ngộ pháp an tâm tức
là ngộ Phật tánh còn gọi là kiến tánh. Qua câu chuyện này quý vị có hiểu pháp
an tâm không? Để chúng tôi so sánh chỗ pháp an tâm và kinh Nguyên Thủy thì quý
vị thấy rõ ràng. Theo kinh Tứ Niệm Xứ Phật đã dạy: “vô thường, khổ,
không, vô ngã”. Chỗ pháp an tâm của Bồ Đề Đạt Ma tương ưng chỗ Phật dạy
tâm vốn không. Khi Thần Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm không thấy đâu,
nhưng khi khởi niệm thì liền có tâm, không niệm thì không tâm. Vậy khi không niệm
tâm quý vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là phiền não bồ đề;
thì còn chỗ nào gọi là tham, sân, si, ái; thì còn chỗ nào gọi là đau khổ sanh tử.
Cho nên Bồ Đề Đạt Ma gọi là an tâm. Vậy pháp môn an tâm của Bồ Đề Đạt Ma có giống
pháp môn chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, Bản Lai Diện Mục hiện tiền của Lục tổ Huệ
Năng không? Kính thưa quý vị Phật tử, khi tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, thì tâm
ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không.
Tâm không là tâm không phiền não. Không phiền não là tâm an ổn. Tâm an ổn là an
tâm. Như vậy bây giờ quý vị đã hiểu rõ hai pháp giống nhau không khác nhau phải
không?
(14:51) Chúng
tôi xin kể lại câu chuyện Bản Lai Diện Mục để quý vị thưởng thức.
“Khi Huệ
Minh đuổi theo Huệ Năng để dành y bát lại. Lục tổ Huệ Năng biết chạy không
thoát khỏi, nên bỏ y bát bên vệ đường đứng đợi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, Huệ Năng
bình tĩnh bảo: Người đến đây cầu pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở
đây ngươi cứ lấy đi đi!
Huệ Minh
cúi đầu đảnh lễ tác bạch: Con đến cầu pháp chẳng cầu y.
Lục tổ Huệ
Năng đáp: Chẳng nghĩ thiện nghĩ ác cái gì là Bản Lai Diện Mục của Thượng tọa Huệ
Minh?
Huệ Minh
đảnh lễ Tổ nhận pháp Bản Lai Diện Mục rồi trở về.”
Kính thưa
quý vị Phật tử! Bây giờ chúng ta đem hai pháp này so sánh với kinh Đại Thừa, vì
lúc nãy chúng ta đã đem so sánh với kinh Nguyên Thủy rồi. Kinh Kim Cang Bát Nhã
có câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” do câu kinh này mà Lục tổ Huệ Năng
đã kiến tánh. Nghĩa của câu kinh này dạy đừng nên trụ chỗ nào thì tâm kia hiện
tiền.
Xin thưa với
quý vị Phật tử! Tâm của chúng ta thường trụ ở ba chỗ: niệm thiện, niệm ác và
không niệm. Kinh này dạy chúng ta ở chỗ không trụ, không trụ tức là không niệm,
không niệm tức là tâm vốn không, tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng
nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác tức là Bản Lai Diện Mục, Bản Lai
Diện Mục tức là Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng
gặp trong các kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Đông Độ. Bấy giờ quý vị đã
hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng
hành.
(17:26)Thiền Đông Độ chia làm ba giai đoạn:
1. Giai đoạn thứ nhất gọi là giai đoạn đầu thiền.
2. Giai đoạn thứ hai gọi là giai đoạn giữa thiền.
3. Giai đoạn thứ ba gọi là giai đoạn cuối thiền.
1. Từ pháp môn An Tâm đến pháp môn Bản Lai Diện Mục là giai đoạn đầu của Thiền Đông Độ.
2.Từ số đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế là giai đoạn giữa thiền.
3.Từ số đệ tử của Lâm Tế đến Hư Vân Hòa Thượng và La Hỏa Thiền sư là giai đoạn cuối thiền.
Giai đoạn đầu,
Thiền sư khai ngộ cho đệ tử dễ hiểu, dễ ngộ, cho nên lúc bấy giờ người theo tu
rất đông nhất là thời kỳ Lục tổ Huệ Năng người nghe qua liền ngộ, không cần phải
moi đầu nặn óc tìm kiếm. Chúng ta phải nói thiền Đông Độ cực thịnh nhất ở thời
điểm này như hoa thiền đến thời kỳ rộ nở. Khi nhận ra pháp này Thiền Đông Độ gọi
là đốn ngộ, ngộ xong rồi phải bảo nhậm còn gọi là tiệm tu, giữ tâm hay chúng
sanh độ Phật. Vì vậy mà có từ ngữ “đốn ngộ rồi tiệm tu”. Tiệm tu có nghĩa là tu
lần lần. Mục đích của thiền này là nhắm vào Phật tánh. Vì có ngộ được Phật tánh
mới thành Phật nên gọi là kiến tánh thành Phật. Ngộ Phật tánh tức là nhận ra
pháp môn tu hành. Nhận ra pháp môn tu hành tức là nhận ra chỗ chẳng nghĩ thiện
nghĩ ác. Chỗ chẳng nghĩ thiện nghĩ ác là chỗ không có pháp môn, nên thiền này
còn gọi là chẳng có pháp môn nào, chỗ không có pháp môn nào biết lấy cái gì tu
hành?
(20:08) Do đó:
.Kinh Kim Cang dạy cách tu “Bồ Tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật”.
.Bát Nhã Tâm kinh dạy: “Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.
.Kinh Lăng Nghiêm dạy : “Phản văn, văn tự tánh”.
.Kinh Viên Giác dạy: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Các tổ sư thiền dạy: “chăn trâu”, “gọi ông chủ”, “biết vọng liền buông”, “tham thoại đầu”, “tham công án”, “khởi nghi tình”, v.v…
Thầy chúng
tôi giải thích cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Thiền
sư Huệ Hải cũng dạy như vậy. Thiền sư Dược Sơn dạy: Ngàn Thánh cũng chẳng làm
nghĩa là cái biết không cho mất, nhờ cái biết trong cái không niệm thiện niệm
ác lâu ngày thuần thục nên gọi là da mỏng da dày đều rớt sạch. Giữ tâm chẳng niệm
thiện niệm ác còn gọi là chăn trâu. Vọng tưởng hết gọi là hết chăn trâu. Hết
chăn trâu là thành tựu cũng như kinh Kim Cang dạy độ hết chúng sanh là thành Phật.
Kính thưa
quý vị! Việc làm này không phải dễ cho nên tổ sư Hoàng Bá đã dạy:
“Thoát khỏi
trần lao việc chẳng thường” hoặc
“Chẳng phải
một phen sương lạnh buốt
Hoa mai
đâu há dễ ngửi mùi hương”
Cho nên chăn
trâu và độ chúng sanh mãi không hết. Thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng liền
buông. Thầy chúng tôi triển khai diệu pháp này để hồi phục Thiền Đông Độ và chấn
hưng Thiền Tông Việt Nam. Trong thời gian chúng tôi theo Thầy tu học tại Thiền
viện Chân Không, Thầy chúng tôi dùng phép an tâm khai ngộ chúng tôi và dạy
chúng tôi cách tu biết vọng liền buông.
(23:11) Kính
thưa quý vị! Kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy cách tu quá đơn giản, nhưng
kinh phát triển và Thiền Đông Độ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không
bao giờ chịu đứng yên một chỗ chẳng niệm thiện niệm ác mà lại lặn xuống rơi vào
trạng thái mất tiêu nên trong Thập Mục Ngưu Đồ tranh thứ 8 “Người trâu đều mất”,
nhưng ở trạng thái hôn trầm, thùy miên vô ký, ngoan không đều có trạng thái mất
tiêu người trâu đều mất. Ở chỗ trạng thái hôn trầm, thuỳ miên thì
các Thiền sư điều biết mặt nó, do đó các Ngài lại một phen khổ sở không biết
làm cách nào phá được nó. Qua những trang tự thuật của các Ngài tu hành chúng
tôi biết các Ngài không có cách phá. Cho đến vô ký, quan không thì trong phần tự
thuật các Ngài không có kể đến. Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi thì các
pháp tu từ pháp Độ Chúng Sanh, Chăn Trâu, Gọi Ông Chủ và Biết Vọng Liền Buông đều
không đủ lực dừng niệm thiện, niệm ác thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên,
vô ký, ngoan không, nên các Ngài phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi
thiền, lấy gốc cây tròn làm gối kê đầu. Những việc làm này chỉ là một trò đùa với
hôn trầm, thùy miên, không thể hàng phục được nó.
(25:14) Kính
thưa quý vị! Chúng tôi xin lưu ý quý vị ở chỗ này khi Chăn Trâu, Độ Chúng Sanh,
Biết Vọng Liền Buông, các pháp này chỉ dừng được niệm thiện niệm ác thô, còn niệm
thiện niệm ác vi tế thì không thể diệt được nó. Nên chúng tôi bảo rằng các pháp
môn này không đủ lực. Vì thế quý vị tu hành suốt một thời gian dài 24 năm nay
mà chưa hết niệm vi tế.
Khi gặp nghịch
cảnh quý vị nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng. Do nó mà chúng tôi bảo
rằng quý vị không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký. Khi bị hôn trầm nặng, loạn
tưởng, thì các Thiền sư thường gọi Ông Chủ. Ông Chủ là pháp môn tác ý, pháp môn
tác ý có nhiều pháp như: Gọi Ông Chủ, Sổ Tức, Niệm Phật, Đề Khởi Thoại Đầu, Đề
Khởi Nghi Tình, v.v…
Kính thưa
quý vị Phật tử! Muốn chiến thắng được loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên thì chỉ
có Giới Luật của Phật mới hàng phục được nó. Do vậy đức Phật mới dạy: “Giới
sanh định”. Không thể giữ tâm ức chế tâm mà có được định. Người ta đi tìm định
ngoài Giới Luật thì không bao giờ có định chân chính, chỉ có những Định Tưởng
mà thôi. Định tiếng động 500 cổ xe bò đi qua không nghe của ngoại đạo, định của
ông Nhan Hồi tọa vong câu thân, định của Thiền sư Dược Sơn như trồng hoa trên
đá, định của tổ Hám Sơn rung chuông gọi dậy, định của một vị Thiền sư nhập 1000
năm dùng đồng loa đánh xuất định, định Không Vô Biên Xứ Tưởng, định Thức Vô
Biên Xứ Tưởng, định Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đều
không giải quyết được sanh, lão, bệnh, tử và cũng không chấm dứt tái sanh luân
hồi, nên đức Phật đã ném bỏ như ném chiếc giày rách, chỉ có người sau không dám
bỏ nên đem xếp loại trong các kinh điển của Phật.
(28:12) Những
lời chúng tôi đã nói thẳng, quý vị đừng tin chúng tôi mà cứ về suy ngẫm kỹ. Sau
này khi có thì giờ chúng tôi sẽ đem so sánh Bốn Thiền của Phật với thiền của
kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ. Nếu quý vị muốn tu theo Phật mà quý vị sợ tu Giới
Luật thì quý vị tu cái gì? Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quý vị rõ.
Bây giờ quý
vị hãy nhìn cây bồ đề trước cửa chùa cành lá đang xanh tươi tốt vì hằng ngày
Chư Tăng bón phân, tưới nước rất kỹ lúc nào cũng không cho cỏ mọc ở gốc cây. Bắt
đầu quý vị hái lá bỏ, khi hái sạch lá quý vị tưởng không còn lá nữa, nào ngờ
trong một thời gian ngắn lá bắt đầu đâm ra rất mạnh như vậy biết bao giờ quý vị
hái cho hết lá. Lá vì tự nơi gốc cây mà ra.
Chúng tôi tu
Giới Luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm
dù một lỗi nhỏ. Giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm tức là chúng tôi đã xa lìa
dục lạc thế gian, cũng giống như cây kia không bón phân tưới nước nữa thì cây
phải cằn cỗi trơ cành trụi lá.
Còn quý vị cố
dừng tâm, giữ tâm không cho niệm thiện niệm ác khởi mà cứ luôn chạy theo dục lạc
thế gian thì cũng giống như cây kia cứ bón phân tưới nước được đầy đủ, thì làm
sao quý vị hết vọng tưởng hết hôn trầm được. Cho nên người ta thường bảo ham ăn
ham ngủ nghĩa là ăn nhiều phải ngủ nhiều.
(31:27) Qua
kinh nghiệm bản thân của chúng tôi ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ no không ăn ráng
ăn thêm, thì hôn trầm vọng tưởng chẳng dừng thì tự nó cũng dừng. Ở đây chỉ ăn một
bữa không ăn uống lặt vặt. Vậy mà có người sợ mất sức khỏe, ăn ngày một bữa mà
ăn hơi nhiều hơn một chút còn bị hôn trầm, thùy miên tấn công huống là quý vị
ăn ngày hai ba bữa còn ăn uống thêm lặt vặt thì thử hỏi làm sao quý vị phá hôn
trầm, thùy miên, vô ký được! Nên đức Phật đã dạy: “Ăn ít ăn vừa đủ không nên ăn
ráng”.
Kính thưa
quý vị! Nếu quý vị tu hành mà không dừng được vọng tưởng cũng không phá được
hôn trầm, thùy miên, vô ký thì lâu ngày quý vị rơi vào các định vong thân như định
của Ngài Nhan Hồi, định trong Thập Mục Ngưu Đồ, tranh số 8 - Người trâu đều
quên. Kinh Đại Thừa không có cách xuất nhập định, nên chỉ dừng hết vọng tưởng
là thành Phật. Ở trạng thái này kinh Đại Thừa gọi là thường định, đại định, định
không xuất không nhập. Thiền Đông Độ cũng vậy không có định xuất nhập. Còn Thập
Mục Ngưu Đồ thì có nhập vào định vong thân người trâu đều quên. Theo kinh nghiệm
bản thân của chúng tôi, nhìn cách thức buông vọng, dừng vọng thì biết cách thức
nhập định của họ.
(34:20) Bây
giờ chúng tôi so sánh hai thứ Thiền Định của Phật và Tổ để quý vị suy ngẫm.
Theo thiền của Đạo Phật, thì muốn hàng phục vọng tâm của mình để nhập Sơ Thiền
thì chúng tôi cần giữ gìn Giới Luật nghiêm túc. Sống lập ba hạnh: Ăn, ngủ và độc
cư. Do ba hạnh này chúng tôi nghiêm trì được Giới Luật bảo vệ được sáu căn tức
là bảo vệ được tâm của chúng tôi. Bảo vệ được tâm tức là không cho tâm tiếp
duyên bên ngoài nhờ đó tâm chúng tôi thanh tịnh, không còn bị loạn tưởng hôn trầm
nhiều. Chúng tôi rất tỉnh giác thường thấy cái tâm ham muốn và tham dục của
mình còn nhiều hay ít, nhờ thấy được nó chúng tôi ly được dục; nhờ ly được dục
chúng tôi thấy cuộc sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi dục lạc. Tâm thường
lặng lẽ, rỗng rang nhưng rất sáng suốt mọi vật không qua được ý tứ của chúng
tôi, từ đó chúng tôi thấy mình làm chủ được tâm trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng tôi không làm khổ mình và cũng không làm khổ người. Điều này chúng tôi hiểu
rõ lời Phật dạy “ly dục sanh hỷ lạc” là đúng. Chúng tôi
nhập Sơ Thiền không có tốn công phu chút nào, chỉ cần sống đúng Giới Luật là đủ.
Kính thưa
quý vị Phật tử! Chúng tôi xin lưu ý quý vị chỗ này, một người muốn nhập Sơ Thiền
không phải là một việc dễ làm. Phải biết xả bỏ tâm ác, phải biết từ bỏ tánh xấu,
phải biết từ bỏ bép xép nhiều chuyện, phải biết thương yêu mọi người, phải biết
tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, phải biết nhẫn nhục, phải biết tùy thuận,
phải biết bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, phải biết xa lánh sắc dục, phải biết
ăn ngày một bữa, phải biết ngủ ít, phải biết sống độc cư, phải biết tu tập đức
hạnh giải thoát. Tóm lại quý vị phải xa lìa tâm danh lợi và ly tất cả dục lạc
thế gian, có được như vậy thì mới nhập được Sơ Thiền.
(38:00) Kinh
Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy phải dụng công tu tập hết sức mới độ hết chúng
sanh, mới giữ được tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Khi độ hết chúng sanh và chẳng
nghĩ thiện nghĩ ác thì mới tương ưng bằng chúng tôi tu Giới Luật nhập Sơ Thiền.
Cùng một kết quả tu hành giữ gìn Giới Luật thì gọi “Giới sanh Định”.
Kinh Nguyên Thuỷ gọi là “ly dục sanh hỷ lạc” nhập Sơ Thiền. Kinh
Đại Thừa gọi là thành Phật. Thiền Đông Độ gọi là Bản Lai Diện Mục.
Kinh Nguyên
Thủy và Giới Luật được giải thoát do ly dục. Ly dục là lìa tâm ham muốn nên giải
thoát được cái ăn, cái ngủ và tất cả lòng ham muốn, nên cuộc sống không còn bon
chen khổ sở, phiền não, sân hận, tham lam si mê ganh tỵ, v.v… Còn kinh Đại Thừa
và Thiền Tông thì khi dừng hết vọng tưởng thì tâm được tự tại vô ngại, đói ăn,
khát uống, mệt ngủ; thậm chí ăn ngày 4, 5 bữa cũng chẳng sao; vui chơi ca hát
đàn địch thỏa thích, sát sanh hại mạng cũng không tội. Những kết quả này của
hai bên xin quý vị suy xét, chúng tôi chẳng có ý kiến gì về nó cả.
Kính thưa
quý vị! Ở đây tu tập Giới Luật mới có diệt được tầm chưa diệt được tứ, nên
chúng tôi tiếp tục nương vào hơi thở tuỳ tức để diệt tứ nhập Nhị Thiền. Đến đây
chúng tôi cũng xin lưu ý nhắc quý vị khi nào quý vị hết vọng tưởng mới tu pháp
tùy tức, còn nếu vọng tưởng chưa hết mà vội tu pháp tùy tức thì quý vị tu hành
hoài công vô ích; mà còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công
chứ chẳng ích lợi gì cho con đường tu hành của quý vị; mà về sau còn tai hại rất
lớn cho quý vị.
(40:53) Khi
chúng tôi tu Giới Luật ly dục diệt tầm tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập Mục
Ngưu Đồ của Thiền Tông - “Trâu quên còn người”. Chỗ này tương ưng với kinh Đại
Thừa, “Độ hết chúng sanh thành Phật”. Khi chúng tôi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền
chỗ này tương ưng với bức tranh thứ 8 trong Thập Mục Ngưu Đồ - “Người trâu đều
quên”. Chúng tôi biết rất rõ ràng diệt tầm là tâm không, diệt tứ là thân không.
Xin lưu ý quý vị khi chúng tôi diệt tầm tứ thì chúng tôi không mất. Chúng tôi
đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra. Trong Thập
Mục Ngưu Đồ tranh 8 - “Người trâu đều quên” không có hỷ lạc, nên mất tiêu đó là
trạng thái vong thân còn gọi là định tưởng vô sắc định, người nhập định tưởng
còn mộng mị chiêm bao như Thiền sư Hoàng Bá, Hám Sơn, Trí Khải Đại sư, như Hư
Vân Hòa Thượng, v.v… Hầu hết phải nói rằng các Thiền sư Đông Độ đều còn nằm
chiêm bao tức là còn tưởng dục. Xưa đức Thế Tôn đã nhập được các định tưởng và
nhập đến định cao nhất của tưởng là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Khi nhập
xong đức Phật xem xét lại thấy không có lợi ích thiết thực giải quyết cái khổ của
đời người, nên đức Phật ném bỏ mặc dù Thầy dạy đức Phật tu pháp môn này rất tha
thiết yêu cầu đức Phật ở lại chia nửa tòa, nhưng đức Phật từ khước ra đi tìm
chân lý.
(43:30) Chỗ
này thiền Đông Độ và Nhị Thiền của Phật không thể tương ưng nhau được, cũng như
kinh Đại Thừa không thể tương ưng với Sơ Thiền được. Vì Sơ Thiền nhờ tu Giới Luật
ly dục ly, tâm được an ổn thanh tịnh thường trống không lặng lẽ. Còn kinh Đại
Thừa khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động. Giống như một vị Thiền sư
nào đó cứ ôm ấp chữ như trên đầu nên qua sông quên mặc quần áo. Cũng như trong
cuốn Góp Nhặt Cát Đá có thuật lại một vị hiền sinh khi sư phụ sai lấy cái thùng
thì mang cái rổ, Thiền sư cả cười cho là đệ tử của mình đắc đạo vô phân biệt.
Kính thưa
quý vị! Chỗ vô phân biệt này không phải là chỗ vô tâm vì cái biết vẫn còn nhưng
không có phân biệt. Ở đây kinh Đại Thừa và Đông Độ chấp nhận chỗ này là tu
xong, còn Thập Mục Ngưu Đồ cho tu đến chỗ này chưa xong còn tiến tu đến tranh
8, tranh 9 và tranh 10. Kính thưa quý vị! Đến đây quý vị tự suy ngẫm sự chứng đạt
này, chúng tôi không có ý kiến gì.
Kính thưa
quý vị Phật tử! Người trâu đều quên mà trong Thập Mục Ngưu Đồ không xác định tu
ở mức độ nào mới đúng là tranh số 8. Mọi trạng thái lặng hôn trầm, thùy miên,
vô ký và ngoan không đều có trạng thái người trâu đều quên. Chỗ này khi quý vị
về suy ngẫm lại khi nào bí quá quý vị về hỏi các vị Thiền sư Đông độ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét