650- TÂM VÔ TÂM
Kính thưa
quý vị! Chúng tôi xin chép ra đây một đoạn trong Thiền Luận của Đại Đức Suzuki
: “Thấy tâm không thật thì tâm dứt, quên trâu tranh 7 - “Vong ngưu tồn nhân”,
thấy người không thật thì người quên nốt tranh 8 - “Nhân ngưu câu vong”. Biết
cái tâm là tâm không tâm, ấy là hiểu suốt Đạo Phật” (Thiền luận tập thượng
trang 616 ). Nghe qua những lời dạy này quý vị có biết cách tu hay không? Hay
chỉ cần thấy tâm không thật, người không thật là vọng tưởng hết là chẳng nghĩ
thiện nghĩ ác. Nói được, không làm được, tri hành không hợp nhất. “Người và
trâu đều quên thì từ lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt trời tuệ, tượng trưng bằng
cái vòng tròn viên giác, tranh 8 - đó là Tâm vô tâm” (Thiền luận tập thượng,
trang 616).
(54:25) Kính
thưa quý vị Phật tử! Đến tranh 8 Thập Mục Ngưu Đồ xác định người trâu đều quên
mất, mới cho đó là tâm vô tâm. Còn kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ trâu mất mà
thằng chăn còn nên gọi là vô phân biệt, qua sông quên mặc quần áo, sai lấy cái
thùng mang cái rổ, chỗ này không phải là vô tâm. Ở chỗ Thập Mục Ngưu Đồ tranh 8
mới là chỗ tâm vô tâm. Chỗ này mới gọi là năng sở không còn. Thầy chúng tôi dạy
năng sở không còn tức là vô tâm hay là tranh số 8. Thập Mục Ngưu Đồ cho chỗ vô
tâm là chưa kết quả viên mãn nên bảo vô tâm còn cách một lớp rào, vì thế phải
tiếp tục tu hành tiến tới tranh 9, tranh 10.
Kính thưa
quý vị! Cái vòng tròn tượng trưng cho trí tuệ từ trong lòng đất người trâu đều
quên sanh ra, Thập Mục Ngưu Đồ, Thiền Tông không xác định được người trâu đều
quên ở mức độ nào mà trí tuệ phát sáng đúng. Hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan
không cũng có trạng thái người trâu đều quên, rồi cũng từ trong đó có trí tuệ
phát sáng, cũng ngộ những công án, cũng thông suốt các lý luận của Thiền Tông
và các kinh Đại Thừa. Những trí tuệ phát sáng này chúng tôi gọi là tưởng tuệ.
Tưởng tuệ là do từ trong định tưởng phát ra, tùy theo ở mức độ nhập định tưởng
lâu mau, sâu cạn và do đó có sự hiểu biết thấp cao. Tưởng tuệ là trí tưởng tượng
suy nghĩ nghĩa lý trong các kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ chứ không có
kinh nghiệm tu hành như kinh Phật, kinh Nguyên Thủy. Câu: “chẳng nghĩ thiện
nghĩ ác, độ hết chúng sanh thành Phật, thấy tâm không thật thì tâm dứt, thấy
người không thật thì người quên”. Những câu nói này là tưởng tuệ, không tu hành
gì được, bằng chứng kinh sách thì nhiều mà người tu chẳng ra gì, nghe thì hữu
lý mà thực hành thì không vô.
(57:05) Bởi
vậy có hàng trăm hàng ngàn người theo tu với Mã Tổ mà người ngộ đạo, ngộ được
tâm ngồi đạo tràng tu hành chỉ có 84 người nhưng đến khi thành tựu chỉ còn có
2, 3 người. Tức là những người nhập được định trong đó có Thiền sư Dược Sơn. Phải
nói Thiền Đông Độ có nhiều đạo tràng chỉ có đạo tràng của Mã Tổ là số người tu
đông nhất.
Kính thưa quý vị! Giai đoạn đầu thiền người ngộ thì đông mà tu thành tựu thì quá ít, không giống như câu nói kiến tánh thành Phật. Biết bao nhiêu người đã thấy chỗ không nghĩ thiện, nghĩ ác mà có làm Phật được đâu? Mà có thành Phật chỗ nào? Do sự tu không được, các Thiền Sư phải thay đổi cách khai ngộ và cách tu, bắt đầu họ dùng những công án rắc rối hơn, hoặc đánh hoặc la, hoặc hét để hạn chế người ngộ. Đó là giai đoạn giữa thiền. Bắt đầu từ các đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế, về cách tu tập họ cũng còn giữ cách tu cũ, nhưng có thêm nhiều thứ thiền như:
.Thiền Lục Diệu Môn: sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh.
.Thiền Hơi Thở: phong, khí, suyển, tức.
.Pháp môn Tịnh Độ
.Thiền Lục Diệu Pháp Môn do Trí Khải đại sư sản sanh.
.Thiền hơi thở phong, khí, suyển, tức do một vị Thiền sư mà chúng tôi không nhớ tên rõ.
Pháp môn Tịnh
Độ do Thiền sư Huệ Viễn lập Liên Trì Thư Xã và sớ giải kinh Tịnh Độ. Thiền sư
Diên Thọ Vĩnh Minh tán thán sương minh pháp môn này.
(59:33) Khi
con đường thiền Đông Độ tu không có kết quả người ta mới sinh ra nhiều pháp môn
như vậy. Nhưng mỗi pháp môn được sinh ra chỉ sống một thời với người cha đẻ của
nó rồi cũng chết vì thiếu kinh nghiệm, do trí tưởng tượng tạo ra nên tu không
có kết quả. Pháp môn Tịnh độ còn sống đến ngày nay là nhờ một nhóm Thiền sư
khéo léo biến pháp môn Tịnh Độ làm chỗ nương tựa tinh thần như: cầu an, cầu
siêu và niềm hi vọng người chết được sanh về Cực Lạc. Người sống tu chưa đạt được
nhất tâm, sau khi chết cũng được sanh về Cực Lạc tiếp tục tu hành. Người ta đặt
ra 48 lời nguyện của đức Phật Di Đà để mọi người dựa vào đó mà nuôi hy vọng như
trong sám Từ Vân có câu :
“Thiện
nam tín nữ các người
Chí thành
tưởng Phật niệm mười tiếng ra
Ta không
rước ở nước Ta
Thệ không
làm Phật chắc đà không sai”
Nhưng đây chỉ
là một thứ hy vọng ảo tưởng mà thôi.
Kính thưa
quý vị Phật tử! Bấy giờ chúng tôi đem so sánh kinh sách Nguyên Thủy, kinh Đại
Thừa, Thiền Đông Độ với Thập Mục Ngưu Đồ. Chúng tôi xin nhắc lại kinh sách Đại
Thừa và Thiền Đông Độ chấp nhận khi hết vọng tưởng là thành Phật: “độ hết chúng
sanh thành Phật, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác Bản Lai Diện Mục hiện tiền hay kiến
tánh thành Phật”. Chỗ này kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ chỉ tương ưng với Thập
Mục Ngưu Đồ ở tranh số 7 - “Ngưu vong tồn nhân”. Thầy chúng tôi dạy trâu mất
người chăn phải còn. Chỗ này Thầy chúng tôi cũng chỉ tương ưng với tranh 7 với
kinh Đại Thừa, với Thiền Đông Độ, nhưng không thể tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ
tranh 8 được.
(01:02:34) Kinh
Đại Thừa và Thiền Đông Độ tu đến chỗ này được xem là thành Phật. Phật là Đại
giác, giác là trí tuệ. Ngược lại Thập Mục Ngưu Đồ cho chỗ tu này chưa xong nên
phải tiếp tục tu tới tranh 8 - “Nhân ngưu câu vong” - người trâu đều mất, người
trâu đều quên. Kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ không có, nhưng kinh Nguyên Thủy
thì tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ ở tranh 8, nhưng lại khác, khi người trâu đều
quên thì Thập Mục Ngưu Đồ mất tiêu rồi phát ra trí tuệ, còn Kinh Nguyên Thủy
thì ở trong trạng thái hỷ lạc do định Nhị Thiền sanh như chúng tôi đã nói ở
trên. Khi trí tuệ hiện ra thì hành giả thấy mình và vạn hữu là một. Nên Thiền
sư Thiền Lão dạy:
“Thúy
trúc huỳnh hoa phi ngoại vật
Bạch vân
minh nguyệt lộ toàn chân”
Dịch :
“Trúc biếc
hoa vàng đâu cảnh ngoại
Trăng
trong mây bạc hiện toàn chân”
Thấy mọi vật
là mình, mình là mọi vật là tranh số 9 - ‘Phản bổn hoàn nguyên” trong Thập Mục
Ngưu Đồ. Tu đến chỗ này sau một năm nhập thất Thầy chúng tôi tuyên bố trước
Tăng Ni và Phật tử Thầy đã về đến nhà tranh số 9 - “Phản bổn hoàn nguyên”. Sau
khi ra thất Thầy chúng tôi cho xây cất Thiền viện Trúc Lâm, phát huy Thiền Tông
Việt Nam để Tăng, Ni và Phật tử có chỗ tu hành chân chính, đó là Thầy chúng tôi
đang ở tranh 10 - “Thõng tay vào chợ”.
(01:04:43) Kính
thưa quý vị Phật tử! Thầy chúng tôi vừa dẫn dắt Tăng, Ni và Phật tử và còn phải
tự tu cho mình. Thế là đến hôm nay Thầy chúng tôi đã đi suốt quãng đường Thập Mục
Ngưu Đồ Thiền Tông.
Kính thưa
quý vị! Như vậy xét qua cách thức tu hành để đi đến kết quả thì kinh Đại Thừa
và Thiền Đông Độ giống nhau. Còn Thập Mục Ngưu Đồ thì không giống kinh Đại Thừa
và Thiền Đông độ. Kinh Nguyên Thủy độc lập không giống kinh Đại Thừa, Thiền
Tông và Thập Mục Ngưu Đồ. Cho nên pháp môn của đức Phật hiện giờ chúng ta đừng
hiểu nó là phương tiện di chuyển mà phải hiểu mỗi pháp môn là một con đường đi.
Mỗi con đường đi nó sẽ dẫn chúng ta đến một nơi riêng của nó.
Kính thưa
quý vị Phật tử! Đến đây quý vị cần suy ngẫm kỹ chứ quý vị đừng hiểu trăm sông đều
về biển cả. Đem pháp môn tu hành của đức Phật ví dụ như vậy là sai. Vì mọi pháp
môn tu hành không phải là những môn học được xếp loại thấp cao để nối tiếp nhau
theo lớp lang. Mọi pháp môn có thấp cao tự nó. Cho nên chúng ta tu đúng thì
đúng ngay từ lúc ban đầu mà đã tu sai thì cũng tu sai ngay từ lúc ban đầu. Nếu
đường đi về thành phố Hồ chí Minh thì phải về thành phố, nếu đường đi về Tây
Ninh thì phải về Tây Ninh. Không thể đi Tây Ninh mà về thành phố được, ngược lại
cũng vậy.
Kính thưa
quý vị Phật tử! Tranh Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông do các Thiền sư sau này tưởng
giải sinh ra qua kinh nghiệm tu hành của mình nên đã đi khá xa hơn kinh Đại Thừa
và Thiền Đông Độ. Nhưng các Thiền sư vẫn chấp nhận cho đó là kết quả của Thiền
Tông. Vậy chúng tôi xin quý vị suy ngẫm, riêng chúng tôi chẳng có ý kiến gì hết.
(01:07:19) Kính
thưa quý vị Phật tử! Bây giờ đến giai đoạn cuối thiền cách khai ngộ vẫn giữ
nguyên như cũ, nhưng đánh, la và hét thì các Thiền sư giảm bớt. Cách tu thì
hoàn toàn thay đổi hẳn. Họ không còn tu Chăn Trâu, Gọi Ông Chủ hay biết vọng liền
buông nữa, mà Tham Thoại Đầu hoặc Tham Công Án Khởi Nghi Tình. Các Ngài cố ôm
chặt khối nghi dùng sức mạnh của khối nghi để tập trung tư tưởng hầu để ức chế
vọng tưởng cho bằng được. Những điều ức chế tâm quá mạnh này khiến cho các Thiền
sư càng nén tâm nhiều. Và sự nén tâm nhiều này khiến cho các Ngài nổi lên những
cơn sân quá dữ dội. Những hành động và lời nói rất thô lỗ và hung ác, khi các
Ngài đối xử với các đệ tử cũng như các Phật tử như Thiền sư Chân Tịnh, La Quả
Thiền sư. Mặc dầu các Thiền sư cố dùng khối nghi mong đè bẹp được vọng tưởng để
đạt được định, nhưng sự thành tựu này cũng chẳng được gì vì chính họ đã đi xa lần
Giới Luật và Đức Hạnh giải thoát của đạo Phật, nên càng ngày họ tu hành không
có kết quả.
Trong cuối thế
kỷ thứ 20 này Thiền Tông đã chết tại đất nước Trung Quốc. Thầy chúng tôi đã đi
qua đó tham quan để tìm xem có vị Thiền sư nào hay không. Chuyến đi đó Thầy
chúng tôi không gặp.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét