Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2024

368- Ý THỨC TÊ LIỆT THÌ TƯỞNG XUẤT HIỆN

 

368- Ý THỨC TÊ LIỆT THÌ TƯỞNG XUẤT HIỆN

(18:11) Tu sinh: Mô Phật! Kính thưa Thầy, theo cách của sư Giác Thức, nãy con mới nghe trình bày thì con nhiếp tâm nó cũng bị mệt cái ngực đó thưa Thầy. Thì sau cái thời gian con mới tự tìm ra cho mình, thì con mới tác ý cái câu là cũng bảo: “Hít vô tôi biết tôi hít vô”. Thì khi mà con ban đầu thì con nhiếp tâm ở trên cái ngón tay của mình như ý: “Tôi biết tôi đang nhiếp tâm”. Sau đó thì con mới rời lại ngay cái chỗ nhân trung, rồi con nhiếp tâm ở tại đó. Nhưng mà con vẫn tác ý cái câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Mình chỉ gom một điểm tại cái nhân trung đó, thì con thấy nó rất là tỉnh và nó không có niệm. Như vậy thì trong cái giai đoạn nhiếp tâm như vậy, thì nó có đúng không? Hay là…​

Trưởng lão: Nó không sao hết đâu con. Nhiếp tâm thì bây giờ con biết hơi thở ra vô chỗ mũi con thì con dùng, trụ nhân trung con nhiếp tâm. Mà theo cái câu tác ý, đừng có mất câu tác ý. Chứ còn con bỏ câu tác ý mà con nhiếp tâm cái này, biết hơi thở ra vô không, thì cái đó là con an trú tâm rồi, sai pháp. Bởi vì an trú tâm con thấy ba cái câu tác ý của người ta. Cho nên hôm nay Thầy nhắc, chứ sự thật ra mấy con, tới khi mà mấy con nhiếp tâm được rồi Thầy mới dạy an trú tâm, nhưng mà chỉ nhắc cách thức mấy con. Tại vì mấy con an trú tâm sai pháp, cho nên Thầy mới nhắc.

— An trú tâm: Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra,

— rồi An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra,

— rồi An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành …​.

Rồi bắt đầu mới ngồi yên lặng để cho cái tâm của mình biết hơi thở ra vô mà nó cảm giác toàn thân. Chứ nó còn không có trụ ở nhân trung nữa, con hiểu không? Hồi nhiếp tác ý thì trụ nhân trung, mà hồi an trú rồi thì để tự nhiên, chứ không phải ở chỗ này nữa. Chỉ biết hơi thở một cách rất nhẹ nhàng. Cho nên khi mà nhiếp tâm mà đầu tiên, mà mấy con muốn dễ dàng sau này cho sự an trú tâm thì các con phải biết hơi thở ra vô, chứ đừng có trụ mạnh.

(20:07) Trụ mạnh là người ta tập cho những người Thọ Bát Quan Trai mới đầu làm quen, để nhiếp tâm thôi. Để không cái tâm họ lung tung như con ngựa, như con trâu rừng. Cho nên bắt buộc nó phải gom tại nhân trung, con hiểu cái người mới tu. Còn bây giờ khi mà mình đi sâu vào chỗ này, thì không nên nhiếp chặt ở chỗ đó.

Nhiếp chặt ở chỗ đó, sau đó nó ôm vô chỗ đó. Nó chỉ biết hơi thở duy nhất đó thôi mà nó không cảm giác toàn thân thì nó không đúng ở chỗ pháp trên thân quán thân. Con hiểu không?

Mục đích mình dẫn dắt sao mà người ta an trú để mà người ta đi vào cái chỗ trên thân quán thân, nó không sai? Cho nên vì vậy mà con thấy hơi thở ra vô nhẹ nhàng trong cái giai đoạn này: Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó, thì con thấy cái hơi thở ra vô nó ở chỗ nhân trung này chứ gì? Nhưng mà đừng có gom chặt quá ở chỗ đó, chỉ biết một hơi thở rồi mới tác ý nữa: Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó, thì cũng thấy rất rõ nhân trung, phải không? Con thấy không? Rồi bắt đầu bây giờ cũng tác ý như vậy, đó là cách thức nhiếp tâm, tập trung nhân trung đúng, không sai.

Nhưng mà an trú tâm rồi thì bắt đầu bây giờ để cho tự nhiên cái hơi thở thì nó nhẹ nhàng, cũng thấy nó thở ra, nhưng mà nó cái cảm nhận toàn thân thêm. Chứ còn nó gom đây, nó không biết cảm nhận toàn thân đó thì con bị ôm chặt, gom chặt, thì nó sai. Cho nên đến cái pháp nhiếp tâm thì các con có thể tập trung tại nhân trung được mấy con. Tại chỗ nhân trung, đừng có tập trung chỗ khác. Tại chỗ nhân trung, tức là hơi thở ra vô chỗ này.

Nhưng mà khi an trú tâm thì Thầy sẽ dạy mấy con thêm cái phần cảm giác tâm. Nó cũng thở, nó cũng biết ở đây, nhưng mà nhờ nó xả bớt cái gom tâm, nó cảm giác, nó nhẹ hơn một chút, để nó đi vào Tứ Niệm Xứ cho dễ. Nhưng mà bây giờ mấy con chưa tới an trú mà, chỉ có nhiếp tâm. Cho nên bây giờ ở tập trung nhân trung được, không có sao hết. Con về tập trung đi, nó dễ dàng hơn.

Tu sinh: Con thấy nó nhiếp mà nó hơi lâu, nó bị hình như nó hơi nặng quá đó Thầy.

Trưởng lão: Nặng quá thì con tác ý xả cái đó đi, chứ không đó nó gom chặt nó. Nó có cảm giác tưởng, nó nặng lắm, nó nặng ở chỗ nhân trung con phải không? Chỗ này phải không?

Tu sinh: Dạ, mô Phật. Hơi lâu là nó bị.

(22:07) Trưởng lão: Hơi lâu là nó bị, đó là gom quá chặt. Gom rồi nó nặng nó cảm nhận ra nặng, tức là nó bị cảm giác nặng. Cho nên vì vậy lúc bấy giờ con xả ra cho nó nhẹ.

Tu sinh: Cho nhẹ nhẹ rồi bắt đầu mình tập lại.

Trưởng lão: Rồi tập lại. Khi mà nó nặng vậy là con xả ra, chứ đừng có để mà nặng kéo dài cho hết giờ thì nó không được. Nó sẽ quen cái chỗ đó mất, để xả nó không còn cảm nặng, để cho nó tập trung một cách nhẹ nhàng. Sau khi đó mình cảm nhận toàn thân mình được, chứ không nó gom chặt, nó nặng chỗ này rồi. Nó có cảm giác nặng là nó xả ra không có được. Nó gom vô nó nặng đó, là bắt đầu nó gom dữ rồi đó, nó nặng đó. Nó có cảm giác nặng đó, nó chịu chỗ này là nó. Có nhiều khi nó đi sâu, nó đi sâu nữa. Cho nên con thấy có cảm giác nặng đó là cảm giác của tưởng rồi đó. Nó đã gom vào đó nó thành tưởng rồi. Nó thành tưởng rồi, nó mới có nặng.

Tu sinh: Mô Phật. vậy cho con hỏi là trong cái thời gian mà ba mươi phút là mình phải chủ yếu là mình phải biết ở tại nhân trung thôi, cho nó nhẹ là được?

Trưởng lão: Nó nhẹ là được con.

Tu sinh: Chứ trong thời gian ba mươi phút nhiếp tâm mà nó đi theo hơi thở đi vô luôn, cái đó không được hả Thầy?

Trưởng lão: Cái đó không được, nó chỉ ở đây thôi, chứ mà nó đi luôn vô này thì nó trật rồi, nó sai đi. Bởi vì đó là những cái mà nó đi trật như vậy đó, nó làm cho không vọng tưởng nhưng mà nó bị lọt trong tưởng. Con cảm nhận như cái hơi thở con hít vô đây, cái nó chạy luôn dưới này thì coi chừng nó chuyển pháp luân đó. Không có được, sai đi. Hiểu không?

Cho nên vì vậy đó mà nhiều người, người ta tu người ta cũng nhiếp tâm cho nó hết vọng tưởng đó, bắt đầu nó thành tưởng. Nó thấy bây giờ nó hết vọng tưởng rồi, bắt đầu bây giờ nó ôm chặt đây, cái nó nặng, nó cảm giác. “Như vậy là rõ ràng nó nhờ ôm nặng chặt đây. Cái cảm giác nặng cái chỗ này, thì như vậy là không vọng tưởng hôn trầm, thì vậy ngon quá, mình làm được”, nhưng mà đó bị tưởng mất rồi. Nó lọt trong cái cảm nhận của tưởng rồi, nó sai rồi.

Cho nên nó đi vào cái Tứ Niệm Xứ thì không được. Bởi vì con đường đi mình còn, còn con đường của nó nó hết rồi. Nó đi tới đó, cái nó hết vọng tưởng, nó hết hôn trầm rồi, thì bắt đầu bây giờ cái thế giới tưởng nó hiện bày ra cho những người tu. Nó không chạy đâu trật nữa hết. Thế nào nó cũng hiện ra.

Bởi vì cái cảm giác đó là cảm giác bắt đầu khởi sự cho tưởng. Cảm giác nhiếp tâm, an trú ý thức, đó là cảm giác của tưởng nó nhiếp tâm, nó nhiếp phục cái ý thức của nó, hoàn toàn ý thức bị chết, tê liệt liền. Con có cái cảm nhận nặng là cái ý thức không có niệm rồi. Thì coi như là cái ý thức nó bị tê liệt, nó bị liệt rồi đó. Thì bắt đầu tưởng thức nó chủ động nó điều khiển nó hoạt động ở trên thân con. Nó hiện ra cái này, cái kia, cái nọ, đủ thứ ở trên thân con, hiện ra trong tâm của con. Ngồi đây mà thấy hào quang xẹt, hay hoặc là thấy hình Phật, hình này kia, nó hiện ra đủ loại.

(24:46) Rồi nó hiện ra những cái tuệ tưởng như sư Giác Thường vừa rồi, mà sư Giác Thường gọi là tư tuệ đó. Bởi vì văn, tư, tu, theo Thiền Tông thì những cái kinh nghiệm tu tập của các Tổ, người ta đã thấy được văn, tư, tu như thế nào. Cho nên sư Giác Thường cũng bị kẹt vào cái chỗ tu tư tuệ đó, tư tuệ. Thành ra trong cái đó, khi mà tư tuệ mấy con cứ tưởng kinh sách cái câu gì nó cũng hiểu hết, mà nó hiểu rất hay và rất tuyệt vời. Nhưng mà hiểu qua cái sự lý thuyết, chứ sự thực hành không biết.

Cho nên nó tới mà luyện Tứ Thần Túc là nó không biết rồi, cho nên nó mới hỏi Thầy. Chứ cỡ mà nó biết chắc nó tu, nay nó bay trên trời luôn rồi, chứ ở đó. Nó không biết, bởi vì nó đâu có kinh nghiệm được cái Tứ Thần Túc đâu, luyện cái Tứ Thần Túc như thế nào? Chứ cỡ mà trong kinh sách có ai viết rồi, bắt đầu nó cũng nói luôn đó chứ không phải dễ đâu. Bởi vì kinh sách không có nói về vấn đề này, cho nên nó đâu có biết. Có ai mà nói qua rồi, bắt đầu nó nhớ lại. Bắt đầu tư tuệ của nó, nó nghĩ cách thức ở trong đó dạy tu vậy. Chứ nó nghĩ cách thức méo mó ở trong đó nó tu. Nó tu để có Tứ Thần Túc.

Đó, thì các con biết rồi, nó ghê gớm lắm, chứ không phải không. Tư tuệ nó ghê gớm, nó là tưởng tuệ. Cho nên vì vậy khi đó là con tác ý xả hay hoặc con đứng dậy con đi, con xả ra. Rồi con tu cho suốt tới nhiếp tâm, cho đến khi mà nó chỉ còn biết cái chỗ, nó gom lại chỗ nhân trung con biết hơi thở ra vô nhẹ nhàng. Đừng có cho nó đi xuống dưới trong lòng con, không có được. Đừng có cho nó trật, đi bậy bạ. Hơi thở gì mà hít vô, thở ra mà chạy tùm lum vậy, đi vô phổi thôi chứ đi đâu mà tới ruột?! Mà cái hơi thở nó cảm nhận được, nó đi tới bụng nó con, đi tới nhân trung, tới rốn mấy con.

(26:14) Mà nó dám đi ngược lại là nó đi như vậy. Trên này nó đi như vậy, chứ nó ngược lên xương sống hay nó đi lên đỉnh đầu nó ra nữa, cái hơi thở nó thở trên đỉnh đầu luôn nữa. Con cứ dùng cái tưởng coi thử coi phải nó chuyển pháp luân nó đi vòng vòng không? Cái hơi thở nó theo cái tưởng mấy con nó dẫn đi đó. Cho nên vì vậy mà bắt đầu mà nó thấy nó tuột xuống đây là bắt đầu nó muốn dẫn đi rồi đó. Cái tưởng nó muốn dẫn cái hơi thở nó đi rồi đó, chứ không phải không?

Tu sinh: Vì vậy con phải xả ra?

Trưởng lão: Xả ra chứ mà còn ngồi đó thì nó dẫn đi luôn. Phải không? Nó có những cái trường hợp đó để rút tỉa từ kinh nghiệm của bạn đồng tu, mấy con. Để chúng ta biết chuẩn bị, đừng có để sai. Đó là những cái pháp tu mà xưa nay thì có nhiều người tu cũng đã gặp trường hợp đó, cho nên họ gọi là chuyển pháp luân hay chuyển hơi thở. Con bây giờ về tập lại, đừng có để cho cái niệm nặng ở cái chỗ nhân trung con, ở chỗ cái môi con, đừng có để bị nặng, xả đi.

Có trường hợp mà nặng thì con xả ra con đi kinh hành. Đừng có ngồi đó, nó tập trung nó đi không được. Rồi tập lại, lần lượt nó phá đi nó không có. Con đạt được ba mươi phút nhiếp tâm rồi, thì tới chừng đó sẽ an trú. An trú từng phút, từng phút, từng phút đi lên, cũng như là mình tập nhiếp tâm vậy, để cho nó không có xảy ra. Chứ còn khi mà an trú một lèo tới ba mươi phút là mấy con bị tưởng liền tức khắc. Cho nên vì vậy an trú từng phút, từng phút, nó có gì cái báo cáo cho Thầy biết, cái Thầy dạy cho cách xả. Để cho chúng ta an trú đúng với cái trạng thái cảm nhận toàn thân của chúng ta, cái cảm nhận cho nó đúng, tới cuối cùng nó không bị cái gì xen vô. Nó không vọng tưởng, nó không hôn trầm mà nó xen ba cái tưởng vô trong đó thì làm sao gọi là Tứ Niệm Xứ được?! Nó cũng như vọng tưởng, hôn trầm mấy con, nó như vọng tưởng, hôn trầm chứ không có gì. Nó xen vô chỗ đó. Rồi!

(27:50) Pháp Châu thì con tiếp tục tu tập, như vậy là tốt, không có sao đâu con. Con thường tu tập như vậy. Đó, cho nên ráng mà tu tập để cho nó được thuần thục như vậy.

Tu sinh Pháp Châu: Con kính bạch Đức Trưởng lão, con trình bày một tý. Nhiều lúc con đi Thân Hành Niệm, nhưng mà có những giờ phút con thấy là con đi đó mà nó, trong khi thẳng cái thân thì nó có cái cảm cái gì là con tác ý con dừng lại, con đi.

Trưởng lão: Được rồi, cứ vậy đó con tập đi.

Tu sinh Pháp Châu: Vậy là con, nhưng mà thưa Thầy, Thầy dạy tất cả những cái gì con hay thiếu lắm, nhưng mà còn về kia do cái trình độ của con, cái học vấn nó kém, cho nên các cái từ ngữ con đang chưa hiểu được hết. Tại vì ở gần trước Thầy một ngày thì con hiểu được, nhưng mà có cái là con có cái sức mạnh như thế này, thưa Đức Trưởng lão, là về lý thuyết thì con kém nhưng mà về cái sức mạnh con nhủ sao thì nó nghe vậy.

Ví dụ con nói: “Mày phải ăn ngày một bữa đừng có ăn nhiều quá, ăn một ngày hai bát cơm thôi”. Rồi con xuống dưới bếp con mượn cái bát đến bữa con đong hai bát đầy đầy là con ăn mà cảm thấy người vẫn khỏe, béo, no. Rồi con tác ý là nó nghe được, mà con xúc cho nửa cái bình bát nó ăn cũng thấy đủ, nhưng bữa nay con ăn gần mấy tháng, con xúc có hai bát mà nó vẫn béo khỏe, như là không có cái gì cả. Con nhủ răng là nó nghe vậy.

Nhưng bây giờ con thấy là trong khi tu tập Thân Hành Niệm thì con theo pháp, thấy đi nhẹ nhàng ngon lành lắm nhưng mà có những giờ phút mà cái thân nó thấy chướng cái là con xin dừng lại, cái đó có đúng pháp không thưa Trưởng lão?

(29:48) Trưởng lão: Đúng đó con. Thấy chướng là phải dừng lại liền tức khắc, để xả (Dạ) chứ không có được tiếp tới. Cứ như vậy.

Tu sinh Pháp Châu: Dạ, con xin cảm ơn.

Trưởng lão: Con ráng mà tập con. Tập cho nó căn bản, cho nó chất lượng hẳn hoi, từ từ tiến lên chứ không có vội vàng. Để cho nó nhuần nhuyễn rồi mới tiến lên nữa, chứ còn chưa có gì hết thì tiến lên nó mất căn bản, phải không?

Tu sinh Pháp Châu: Thưa đức Trưởng lão là đức Trưởng lão nói nhiều lúc con mới thấy cảm động. Đức Trưởng lão dạy nhiều lúc mà con thì là học trò để tiến lên làm chủ được sinh, già, bệnh, tử; để bây giờ đức Trưởng lão vào Niết Bàn cho khỏe. Thế mà nhiều lúc cái câu nói của đức Trưởng lão làm con rất cảm động, nhưng mà con cái cảm động đó vẫn cố gắng tu. Nhưng mà không được cái là học tập với con chậm lắm để mà, từng cái hướng dẫn để mà con thầm lặng để mà đi, thành công được cái gì, lúc nào là cứ tu tập theo chứ không vội vàng, thì con nhận thức được cái đó.

Trưởng lão: Phải rồi con, phải ráng như vậy mới là không phụ ơn của Thầy con.

(31:02) Trưởng lão: Riêng cái bức thư này của ai không có đề tên Thầy không biết, nhưng mà: “Khi đã thuần thục không còn đếm lộn và cảm nhận được bước đi và hơi thở rõ ràng, không bỏ sót bước nào thì mới nên qua bước khác, như vậy có đúng hay sai?”

Không phải con!

Ở đây Thầy mới nhắc, không biết cái tờ giấy này là của ai? Không biết con. Nhưng mà các con lưu ý, ở đây Thầy đọc lại cái…​ Bởi vì các con không có để cái pháp danh, cái tên Thầy không biết là của ai, cho nên Thầy đọc lại cho mấy con nghe, phải không? Mà các con viết như này:

Kính thưa Thầy: Khi đã thuần thục, khi đã thuần thục không còn đếm lộn và cảm nhận được bước đi và hơi thở rõ ràng, không bỏ sót bước nà, thì mới nên qua bước khác. Như vậy đúng sai”?

Con xá Thầy thôi con.

Bây giờ con tập như thế này nè, con tu như vậy không phải sai. Nghĩa là đi, đếm nó không lộn, cảm nhận bước đi nó không lộn. Nhưng mà cái khoảng thời gian đi mà cảm nhận đếm không lộn, thì nó là cái khoảng thời gian chưa có chất lượng, con hiểu không? Cho nên vì vậy hôm nay chúng ta bắt đầu tu một phút nhiếp tâm cho có chất lượng. Là con sẽ tu một phút, rồi tu một tuần lễ hay hoặc là ba ngày, năm ngày tăng lên hai phút, cho mỗi phút có chất lượng. Cho nên nó không thể nào gọi là đếm lộn hoặc là không cảm nhận. Nghĩa là lúc nào khi mà chúng ta không tu thôi, chúng ta tu một phút thì không thể nào mà chúng ta lầm lộn quên được.

Cho nên con phải tu như thế này này: Nhiếp tâm thì phải bắt đầu bằng cái cánh tay hoặc là bằng bước đi con, tức là Thân Hành Ngoại hoặc bằng hơi thở. Ví dụ như con nhiếp tâm bằng cái hơi thở thì: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Con tác ý âm thầm ở trong ý, ở trong đầu của con. Con tác ý câu đó, rồi con hít vô, thở ra.

(33:00) Rồi con tác ý nữa: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi con lại hít vô, thở ra nữa. Như vậy đúng một phút rồi con nghỉ. Rồi một lúc nữa con lại tu lại một phút nữa. Và cứ như vậy trong một ngày hoặc hai ngày thì con lại tăng lên hai phút. Cứ như vậy con tập thì như vậy là không bao giờ mà còn đếm lộn nữa. Bởi vì con đâu còn đếm nữa. “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi hít vô, thở ra. Con để cái đồng hồ trước mặt kia kìa, phải không? Con tu một phút thì con để đồng hồ trước mặt, phải không? Con nhìn cái kim chỉ giây của nó.

Bây giờ cái cây kim chỉ giây nó đúng số 12 thì bắt đầu con mới nhắc: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi con hít vô, thở ra. Rồi bắt đầu con lại tác ý lần nữa, con lại nhắc: Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra, rồi hít vô, thở ra. Cứ như vậy mà con thấy cây kim mà chỉ giây nó chỉ đúng vào số 12, thì con đã biết rằng con đã tu được một phút, thì con xả nghỉ. Chứ không có tu nhiều nữa. Rồi tu năm ngày, mười ngày hay là tuần lễ con sẽ tăng lên hai phút. Nghĩa là bắt đầu cây kim đó nó chỉ số 12 thì con lại tác ý.

Cho nên khi đó con tác ý cho đến khi nó đi vòng thứ hai nữa nó tới số 12, tức là hai phút. Cứ tu vậy. Rồi hai phút, rồi con lên ba phút, nó đi ba vòng, nó đi bốn vòng, rồi nó đi năm vòng. Thì lúc bấy giờ năm vòng thì con thấy cây kim phút nó chỉ cái số thí dụ như chỉ số 12, thì con cứ tu. Tu năm phút cho đến khi nó chỉ xuống số 1, thì tức cái khoảng cách của nó từ số 12 mà cho đến số 1 thì con biết đó là năm phút. Con hiểu không? Cho nên con xả nghỉ. Rồi tới chừng vô thì con dò cái cây kim mà chỉ số phút nó sẽ ở cái số nào. Thí dụ như ở số 5 thì con sẽ tu cho đến khi cây kim phút nó chỉ số 6. Là con biết con được năm phút.

Đó nó dễ dàng lắm, nó không có khó. Như vậy là nó sẽ không còn đếm một, hai, ba, bốn hơi thở nữa, mà nó chỉ tác ý mà thôi. Con hiểu không? Đây là mình không có đi qua cái sổ tức, nó đếm và cái cảm nhận đi nó quên hơi thở này kia, không phải. Con tu trở lại cho kỹ lưỡng cách thức nhiếp tâm như vậy, để rồi lần lượt đi đến ba mươi phút nhiếp tâm hoàn toàn không niệm, không hôn trầm. Rồi chừng đó Thầy sẽ dạy tiếp an trú tâm. Thì khi mà an trú tâm được rồi thì con sẽ vào Tứ Niệm Xứ.

(35:34) Lúc bấy giờ Tứ Niệm Xứ thì có căn bản rồi thì dễ dàng lắm, nó không có khó. Ngồi chơi nhẹ nhàng mà lại chứng làm Phật. Không có gì cả, lúc này là Phật thật à. Người mà tu Tứ Niệm Xứ mà ngồi chơi mà lại tâm bất động, đó là Phật thật rồi. Cho nên chúng ta bắt đầu đi từ cái bước đầu nhiếp tâm, an trú thì nó còn vất vả, nhiều sự vất vả tu tập. Nhưng mà đến khi mà vô Tứ niệm Xứ rồi coi như là bậc A La Hán tại chỗ pháp Tứ Niệm Xứ. Cho nên Đức Phật sắp sửa nhập diệt thì Đức Phật di chúc lại cho các vị Tỳ kheo và những người sau này: Hãy lấy Giới Luật và Giáo pháp ta làm nơi nương tựa, làm ngọn đuốc soi đường, làm nơi nương tựa vững chắc”. Đó là Giới Luật và Tứ Niệm Xứ mấy con. Cho nên có Tứ Niệm Xứ mà thôi. Nhưng mà muốn bước vào Tứ Niệm Xứ nó phải trải qua một giai đoạn tu tập mà rất nhiều chứ không phải ít mới vào được Tứ Niệm Xứ.

Nhưng mà tới cái chỗ pháp Tứ Niệm Xứ thì Đức Phật đã di chúc cho chúng ta biết pháp của Phật là Tứ Niệm Xứ, để mà chúng ta đạt được cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Nhưng mà lìa Giới Luật mà tu Tứ Niệm Xứ thì không bao giờ tu được. Mà không có Tứ Niệm Xứ thì không bao giờ chứng quả A La Hán được. Cho nên đó là cái chặng đường cuối cùng.

Mà bây giờ chúng ta giới luật nghiêm chỉnh, chúng ta xả tâm bằng cách nhiếp tâm, an trú, bằng cách Tứ Chánh Cần đủ cách, để rồi chúng ta mới bước vào Tứ Niệm Xứ. Thì bước vào được Tứ Niệm Xứ thì con đường tu tập chúng ta mới chắc ăn, mới thành công. Không có Tứ Niệm Xứ thì không bao giờ chúng ta chứng quả A La Hán được. Nó không thể mà tăng đại. Bởi vì Tứ Niệm Xứ nó chuẩn bị cho chúng ta đi vào đúng pháp, tu vào đúng pháp.

(37:37) Ngoài Tứ Niệm Xứ mà chúng ta tu nhiếp tâm, an trú, chúng ta sẽ lạc vào đường tà. Không có Tứ Niệm Xứ thì người nào cũng tu lạc vào đường tà hết. Cho nên vào Tứ Niệm Xứ mà người ta chưa có hết tham, sân, si, mạn, nghi thô, mà người ta vội vào Tứ Niệm Xứ là những người chưa biết tu Tứ Niệm Xứ. Cho nên Tứ Niệm Xứ đó là pháp tà, chứ không phải là chính Tứ Niệm Xứ của Phật. Cho nên con phải tập lại cho căn bản. Rồi sẽ đi vào Tứ Niệm Xứ rất tốt con, nhớ chưa? Có nghe lời Thầy nói chưa?

Tu sinh Minh Hòa: Dạ. Mô Phật.

Trưởng lão: Con về tập.

Tu sinh Minh Hòa: Con về con thấy tính phút chứ không có còn đếm số nữa.

Trưởng lão: Không còn đếm nữa con, không còn đếm nữa, đếm nó còn động, (Dạ) tính phút thôi. Rồi cứ tác ý cho đúng pháp như vậy đến một phút rồi xả nghỉ. (Dạ) Rồi lần lượt tăng lên hai phút, lần lượt tăng lên ba phút, cái đồng hồ để đó. Chứ mình không có đếm để mình tính bây giờ tôi đếm hai chục hơi thở, hai chục bước là một phút. Không cần phải tính ba cái đếm đó nữa. Đếm nó mắc cái khởi ý của mình phải đếm ở trong đó, không được. Nó thành ra cái pháp khác, nó không phải là pháp của Phật. Cho nên con về tập lại đi con.

Tu sinh Minh Hòa: Còn cái đó cũng của con


Thứ Hai, 22 tháng 1, 2024

367- TƯỞNG XUẤT HIỆN KHI AN TRÚ TÂM

 

367- TƯỞNG XUẤT HIỆN KHI AN TRÚ TÂM

(00:00) Trưởng lão: Trong cái thời gian mà Thầy đi Nghệ An, rồi Hà Nội mà Thầy về, Thầy lo cho sư Giác Thường nhiều lắm mấy con. Hôm nay là không có mặt sư Giác Thường, là tại vì Thầy cho sư Giác Thường, coi như là ba mươi phút nhiếp tâm và an trú tâm được vào tu Tứ Niệm Xứ. Nhưng Thầy đã kiểm tra lại hoàn toàn sư Giác Thường tu không đúng đâu mấy con. Cho nên hiện giờ sư Giác Thường, vừa rồi Thầy qua Thầy gặp sư Giác Thường, Sư Giác Thường xin Thầy cho dạy, cho phép thầy được tập luyện Tứ Thần Túc.

Thầy đã có tuệ, đã có tư tuệ, hiện bây giờ thầy đã hiểu được pháp này, pháp kia. Cho nên Thầy kiểm tra lại hoàn toàn thầy đã lọt vào tưởng tuệ. Rất là nguy hiểm mấy con! Thầy cứ ngỡ rằng mình đã đạt được, nhưng mà không ngờ đạt sai pháp. Hoàn toàn sư Giác Thường ức chế tâm của mình bị lọt vào pháp tưởng. Cứ ngỡ rằng hết vọng tưởng, nhưng mà để cho Tưởng tuệ của mình tự tăng lên thời gian dài.

Rồi Thầy bảo ba mươi phút là phải dừng lại, có một trạng thái gì thì chờ Thầy, khi đó Thầy sẽ chỉ cách thức phá trong những trạng thái trong ba mươi phút an trú tâm.

Các con biết khi mà các con nói ba mươi phút an trú tâm đều được Thầy kiểm nghiệm, Thầy cho ở gần Thầy kiểm nghiệm hết, coi đúng ba mươi phút đó như thế nào? Tại sao suốt trong ba mươi phút an trú tâm mà không có trạng thái tưởng nào hiện ra? Bởi vì ý thức của mấy con suốt trong ba mươi phút nhiếp tâm và an trú, là có sự ức chế trong đó rõ ràng chứ, nó mới không niệm chứ. Cho nên vì vậy mà các con thấy, Thầy sử dụng cái pháp để nhiếp tâm bằng cái đường lối đúng như Phật dạy- Như Lý Tác Ý. Là ý thức chúng ta mắc bận làm việc cho nên vọng tưởng không phóng.

Còn an trú tâm là cái ý thức không làm việc nữa. Đầu tiên thì nó biết hơi thở ra vô. Nhưng một lúc nó an thật sự, thì cái tưởng thức nó thay thế nó làm việc, ý thức không làm. Nhưng khi mà tưởng thức mà nó làm việc thì nó phải có những cái trạng thái hiện ra. Mà những trạng thái hiện ra, thì chúng ta phải sử dụng phương pháp nào để mà xả tất cả những trạng thái này?

(02:27) Mà khi xả hết những trạng thái này rồi thì chúng ta mới đạt được ba mươi phút an trú tâm. Mà các con thấy các con làm sao các con tránh khỏi cái cửa tưởng thức này? Cái cửa tưởng thức này làm sao tránh khỏi?

Vậy mà nhiếp tâm, an trú mà không có tưởng thì như thế nào? Nó phải có những hiện tượng tưởng. Khi chẳng hạn nào bây giờ cái sự an trú của một cái ý thức của chúng ta mà an trú thì nó rất bình thường, giống như người tu Tứ Chánh Cần.

Họ tác ý một câu, họ tác ý: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”, rồi họ ngồi đây họ nhìn coi cái ý của họ nó khởi niệm gì? Họ không ức chế nó đâu, thì bắt đầu ở trong đầu họ nó khởi một niệm, thì bắt đầu họ mổ xẻ cái niệm đó ra. Thì mổ xẻ nó ra thì họ xả cái niệm đó bằng câu tác ý kế đó. Rồi họ trở về với trạng thái bất động, thanh thản của họ nữa. Rồi nó có niệm nữa họ sẽ xả từng, tiếp tục ba mươi phút như vậy, họ luôn luôn lúc nào cũng có niệm hết.

Có hôn trầm, thùy miên thì họ đi kinh hành. Nhưng họ biết cái giờ đó có hôn trầm, thùy miên thì họ không đợi hôn trầm, thùy miên đến, họ vẫn đi trước. Họ rất bén nhạy, họ rất tỉnh táo.

Khi có niệm thì họ ngồi đó, bởi vì có niệm là phải có còn đang tỉnh, cho nên nó mới có vọng. Mà có vọng thì tức là họ sẽ dùng ý thức của họ tư duy, suy nghĩ để xả cái niệm đó, chứ không phải là họ “biết vọng liền buông xuống”.

Còn không niệm họ biết không niệm, họ biết tâm họ bây giờ nó không có khởi niệm nữa rồi, thì họ biết nó sẽ đi vào hôn trầm đó, thùy miên. Họ biết trước, họ định trước, họ sẽ không làm gì nữa. Cho nên họ đã đứng dậy đi kinh hành trước khi có hiện tượng lặng vô. Họ nghe nó an là họ biết rồi, nó sắp sửa đây rồi. Cho nên cái người tu Tứ Chánh Cần, người ta dùng cái sáng suốt, cái tri kiến, cái ý thức của họ. Họ xem xét từng phút, từng giây, từng tâm niệm trong đầu của họ để nó hiện ra cái niệm này hoặc là cái niệm hôn trầm, thùy miên. Trước khi hôn trầm, thùy miên nó sẽ báo cho chúng ta biết chứ nó không phải là nó muốn vô là vô liền đâu, không có đâu.

(04:30) Chỉ có trạng thái vô ký thì nó giật, giật mình một cái vậy, nó quá nhanh, nó làm chúng ta không hay thôi. Chứ còn tất cả những cái khác đều chúng ta biết hết. Đó là người tu Tứ Chánh Cần.

Còn các con tu mà nhiếp tâm bằng con đường pháp Như Lý Tác Ý, bằng con đường hơi thở của Phật dạy. Và an trú tâm bằng con đường của Phật dạy, thì làm gì mấy con cũng có tưởng hết, người nào cũng có tưởng. Ba mươi phút là trong khoảng thời gian an trú ba mươi phút đều có tưởng xảy ra- xúc tưởng hỷ lạc. Ngồi một chút sao an lạc quá ? Mà mấy con không trình mấy con tưởng rằng đó là định. Không phải, không phải định. Tướng định, không phải đâu! Nó là ma chứ không phải đâu.

Cho nên vì vậy một trạng thái hỷ lạc nó sinh ra nơi thân tâm của mấy con, phải tác ý ngay liền, xả liền. Nhiều khi ngồi đó mà tác ý, vừa động niệm tác ý là nó sẽ đi mất. Bởi vì khi động thì nó mất cái an trú, mà không động, thì không mất an trú. Vậy các con hiểu chưa? Cho nên Thầy nói khi mà ba mươi phút các con đến đây trình bày cho Thầy coi. (Có gì không con? Con hãy trình cho Thầy). Cho nên khi mà bị những trạng thái tưởng, mấy con phải nói cho rõ, để mà Thầy giúp cho mấy con được nhiếp tâm an trú khoảng thời gian đó cho nó đúng. Là chúng ta đã chủ động bằng ý thức chúng ta, để an trú được ba mươi phút, để bước sang qua Tứ Niệm Xứ một cách chững chạc và đúng đắn hơn.

Con trình Thầy!


Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2024

366-CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG KẺ LỪA ĐẢO LỢI DỤNG DANH NGHĨA TRƯỞNG LÃO

 

366-CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG KẺ LỪA ĐẢO LỢI DỤNG DANH NGHĨA TRƯỞNG LÃO

(37:10) Hôm nay Thầy về đây để dạy mấy con học đạo đức làm người, để chúng ta chan hoà tình thương trên mảnh đất quê hương; mảnh đất mà chúng ta đổi lấy biết bao nhiêu máu của anh, chị, em, cô, bác chúng ta. Cho nên Thầy kêu gọi các con phải thương nhau, tha thứ cho nhau, đừng vì một lý do gì mà chỉ trích người này, chỉ trích người kia.

Hôm nay các con về đây thành lập tổ thọ Bát Quan Trai, từ đó các con cố gắng; Nếu các con đang chia làm hai tổ để chúng ta sinh hoạt dễ dàng thì tổ nào có tài khoản tổ nấy để khi sinh hoạt tổ này không được xin tiền tổ kia, tổ kia không được xin tiền tổ nọ; Mỗi tổ chúng ta đều tự làm tốt các con!

Phật tử 1: Xin mời các cụ ạ. Các bạn trẻ có thể ra nhường chỗ cho các cụ già một chút ạ. Dạ vâng.

Phật tử 2: Cho các cụ già vào đi ạ.

Phật tử 1: Xin mọi người ổn định trật tự để đức Trưởng lão tiếp tục giảng dạy ạ. Các cụ khẩn trương ạ. Vâng, con xin mời đức Trưởng lão tiếp tục.

(39:14) Trưởng lão: Hôm nay Thầy kêu gọi mấy con đoàn kết với nhau, để chúng ta chia ra từng tổ nhỏ, mười người, mười lăm người một tổ, rồi mình sinh hoạt trong tổ đó để hướng dẫn cùng nhau tu tập, sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người.

Ví dụ như trung tâm an dưỡng ra đời thì Thầy cho ở Hà Nội này nhiều tổ. Tổ thứ nhất đến trung tâm này học trong tuần lễ đó; Thì các con cho những người nào được vào học trong cái tổ đó thì các con cho họ lên. Rồi tổ kia tới ngày khác, tổ khác tới ngày khác nữa; Hoặc là một tổ học trong một tuần lễ thì như vậy mình chia ra. Đông như thế này làm sao học được các con? Cho nên khi mà đứng lớp thì Thầy sẽ dạy từng tổ, do đó nếu chia ra được như vậy chứ còn không khéo rồi chúng ta chỉ nghe lỗ tai này qua lỗ tai kia rồi thôi. Các con biết học đạo đức không như học chữ. Bởi vì đầu óc chúng ta cần phải tư duy suy nghĩ, mà cần tư duy suy nghĩ thì các con phải cầm cây bút mà viết ra thành bài văn. Suy nghĩ lời nói đó như thế nào, ý nghĩ đó như thế nào.

Ở trong Thầy có một cụ già tám mươi tám tuổi, lớp học mở Chánh Kiến cụ ngồi làm bài như những học sinh. các con thấy người ta vẫn tha thiết tu hành, đến tuổi sắp chết người ta vẫn làm được. Thầy tin rằng nhìn trước mặt Thầy có các cụ tóc bạc, rồi các cụ cũng sẽ được học, được sự hướng dẫn của Thầy, được dạy cho các cụ sống tâm thanh thản, an lạc, vô sự, bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Đó là đem lại sự bình an cho tâm.

Nhất là chúng ta là những con cháu, cần phải cố gắng tìm mọi cách làm cho có nơi để các cụ được nghỉ ngơi và học tập. Không lẽ cha mẹ sanh chúng ta ra, nuôi chúng ta cực khổ, bây giờ buộc các cụ phải ôm cháu mà nuôi nữa sao, trông cháu hàng ngày nữa sao? Chúng ta làm sao báo hiếu, đền đáp công ơn sanh thành của cha mẹ? Phải để cho cha mẹ dành một thời gian còn lại quá ngắn ngủi để cho người học được đạo đức sống làm chủ sanh - già - bệnh - chết, trước khi người ra đi được tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Vừa rồi cô Liễu Sanh gặp Thầy. Trước khi gặp Thầy thì chiều tối hôm đó về ngủ rồi cô ngủ luôn. Một lúc nữa Thầy sẽ đến thăm gia đình cô. Cô là đệ tử của Thầy, Thầy đặt pháp danh là Liễu Sanh.

(41:58) Hôm nay Thầy đến đây gợi ý cho các con tổ chức cặn kẽ, kỹ lưỡng từng tổ thọ Bát Quan Trai. Tổ nào sinh hoạt tổ nấy. Những chi phí của các con sẽ đóng góp nhau lại thành một cái tổ để sau khi xin phép được những sách đạo đức, Thầy gửi về trao cho các con, tự tổ các con sẽ bỏ tiền ra in cuốn sách đạo đức rồi các con phát ra cho huynh đệ, cho bạn đồng tu mình, cho trong tổ mình. các con lãnh nhiệm vụ tự in ra những sách đạo đức. Thầy có công viết, các con có công in. Thầy có công xin phép, các con đem sách xin in ấn phẩm đàng hoàng, đúng pháp luật nhà nước để chúng ta học đạo đức. Do đó, Thầy mong rằng những điều này các con làm trước. Tổ này thương yêu tổ kia, tổ kia thương yêu tổ nọ. Mỗi tổ có tài khoản, có kinh tế riêng của tổ đó. Chúng ta dành dụm từng xu, từng cắc để chúng ta làm những việc cần thiết, lợi ích cho mình, cho người. các con nhớ tổ chức lại đàng hoàng.

Đừng có đứng tổ này mà nói xấu tổ kia, đừng có đứng tổ kia mà nói xấu tổ nọ. Đừng có đứng trong tổ này mà chỉ trích tổ khác, đừng có chỉ trích người này, đừng có chỉ trích người kia mà Thầy không trở về Hà Nội nữa. Một lần nữa Thầy nghe ngoài này mà các con không đoàn kết, chỉ trích, nói xấu nhau thì Thầy không về Hà Nội nữa. Thầy hứa với các con. Dù bây giờ Thầy tám mươi tuổi, Thầy có thể sống một trăm tuổi để dẫn dắt các con được trên con đường học đạo đức này. Nhưng các con không nghe lời Thầy, cãi Thầy, làm Thầy buồn bực vì các con của mình không tốt, sống tranh chấp, hơn thua danh lợi, thì Thầy sẽ bỏ ra đi, không cần ở lại đây làm gì. Thầy hứa với các con.

(43:59) Thầy là con người làm chủ được sự sống chết của mình thì muốn đi lúc nào thì đi. Các con còn thương nhau thì Thầy ở lại dạy đạo đức cho các con mà các con không thương nhau như trong một gia đình có ba đứa con mà rầy rà, lộn xộn, không thương nhau thì ông cha còn ở đó để làm gì nữa con? Bỏ đi cho rồi chứ làm gì, nói không biết nghe.

Hôm nay Thầy về đây nói cho các con biết. Nhiều người lợi dụng danh nghĩa Thầy làm những điều không tốt. Cho nên hôm nay Thầy có một bức thư Thầy viết để kêu gọi các con chuẩn bị cái tinh thần của bức thư này. Thầy xin đọc bức thư để các con nghe.

Chơn Như, ngày 4 tháng 4 năm 2006,

Kính gửi quý Phật tử thân mến trong nước cũng như ở nước ngoài, kính thưa quý vị trung tâm an dưỡng từ thiện thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội đang chờ đợi giấy phép. Khi nào được cấp giấy phép xong thì Thầy sẽ thành lập Ban tài khoản của trung tâm, và chừng đó mới kêu gọi các hội từ thiện, gia đình Phật tử cùng tất cả quý Phật tử xa gần cùng góp công, góp của để có kinh tế cho trung tâm hoạt động. Còn bây giờ giấy phép chưa xong mà có người vận động quyên góp tiền bạc, công sức của Phật tử là không đúng tinh thần từ thiện. Xin quý Phật tử lưu ý!

Kính thưa quý Phật tử, quý vị cần phải đề cao cảnh giác mọi việc không tốt xảy ra, đợi chừng nào có thư của Thầy gửi đến thì quý Phật tử hãy giúp đỡ Thầy, còn không có thư thì thôi. Chúng sanh ít phước nên Thầy phải cố gắng ra công dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo nhưng gặp nhiều khó khăn và gian nan. Ước nguyện của thầy là trung tâm an dưỡng ra đời sớm chừng nào tốt chừng nấy để tám lớp học Bát Chánh Đạo thành hình. Đó là cơ sở dạy đạo đức cho mọi người đầu tiên trên hành tinh này. Cho nên ngay từ lúc bây giờ, quý Phật tử lưu ý đừng để bị người khác lợi dụng danh nghĩa của Thầy làm mất uy danh của trung tâm an dưỡng về sau.

Cuối cùng, Thầy thăm và chúc quý Phật tử mạnh khoẻ. Nhớ tu tập xả tâm tốt, sống một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Kính thư.

Đó bức thư của Thầy kêu gọi các con.

(47:02) Để mấy con bị lừa đảo - người ta gọi danh nghĩa của Thầy làm từ thiện này, làm từ thiện kia: “Đây là trung tâm an dưỡng"- người ta gọi các con. các con nghe tưởng Thầy kêu gọi, các con thương Thầy, các con quyết giúp đỡ Thầy, các con cùng siết chặt bàn tay của Thầy và các con để xây dựng trung tâm an dưỡng nhưng không ngờ người ta bỏ túi người ta xài.

Mồ hôi, nước mắt của các con làm ra được đồng bạc quá vất vả thế mà vì lòng muốn dựng lại nền đạo đức, các con mới đem sức lực của mình cùng Thầy đóng góp để làm nên việc lớn, lợi ích cho mình hiện tại, cho con cháu mình về sau. Thế mà bị lợi dụng!

Cho nên ở đây đề cao cảnh giác mà Thầy chia các con thành những tổ, rồi sự sinh hoạt trong tổ các con thành lập một tài khoản các con gửi một người, hai người, ba người giữ gìn cái tiền bạc đó cho các con để rồi khi cần dùng in kinh sách, tổ của con hãnh diện được in cuốn sách đạo đức này trong khi đó Thầy cho ghi tên Tổ một, tổ hai, tổ thọ Bát Quan Trai nguyên thuỷ Hà Nội một, Hà Nội hai, Hà Nội ba, bốn, năm ngay tập sách mà các con được in. Tên của mọi người trong tổ được ghi vào những trang sách đó. Đó là các con góp công, góp mồ hôi, nước mắt giúp Thầy để tập sách được ra đời đến với mọi người học đạo đức.

Các con thấy Thầy giao cho tổ các con làm cái nhiệm vụ ấn tống kinh này, các con bỏ tiền ra, người một chút, các con in được dễ dàng. Ví dụ như sức các con in có một tập hai chục triệu thì các con sẽ bỏ ra hai chục triệu in một tập đó. Có phải không các con? Và bây giờ mười người, hai mươi người, Thầy thấy rằng một người hai chục triệu làm sao in nổi nhưng mười người, hai chục người, ba chục người thì các con làm được chứ, phải không? Một người một trăm, một triệu, một ngàn, người ít người nhiều cùng nhau, hợp nhau thì các con làm cuốn sách đạo đức được ra đời.

Các con thấy lòng thương yêu của Thầy muốn đem hết lại cho các con, nhưng phòng ngừa những người xấu người ta đang lợi dụng Thầy làm những việc không thiện. Rồi tội lỗi về ai? Tất cả những gì các con cúng dường cho Thầy, Thầy chấp nhận hết tội lỗi. Nghĩa là người nào mà Thầy giao tiền bạc cho họ làm mà họ làm sai quấy thì Thầy chịu tội với các con. Nhưng các con đã biết rằng khi các con cúng dường Thầy, Thầy là người giữ gìn giới luật không cất giữ tiền bạc nên giao lại cho người khác, và người khác phải làm theo sự chỉ đạo của Thầy để in các cuốn kinh, phải xây dựng trung tâm an dưỡng, phải chi cho trung tâm an dưỡng những điều cần thiết cho trung tâm an dưỡng, phải chi trả lương cho công nhân viên làm cho trung tâm an dưỡng.

(50:11) Đồng bạc của các con Thầy chỉ đạo đâu đó rành rẽ, không bao giờ hao hụt. Và nếu có sự lầm lạc, sai lạc của những người làm việc mà ăn xớt, ăn bớt Thầy xin chịu tội tất cả những điều đó với các con, Thầy xin chịu tội hết. Còn những người làm sai để nhân quả đền bù họ. Các con đừng nói người đó xấu các con. Vì mọi người tâm chúng ta vẫn còn tham - sân - si, tâm người kia vẫn còn tham - sân - si, làm sao đứng trên đống tiền, đống bạc mà làm sao không bị tiền bạc lôi cuốn? Có phải không các con?

Bây giờ các con có một tỷ bạc, nhưng tiền bạc năm, mười tỉ nó làm mờ mắt các con đi. Nếu các con có một tỷ bạc thì một triệu, hai triệu các con coi nó không nhằm nhò gì, các con không tham. Nhưng mà khi nó hơn cái sức đó rồi thì cái tâm tham của các con nó nổi lên. Cho nên nhiều người đi ở tù là vậy. Họ cũng giàu lắm rồi chứ. Nhưng mà số tiền họ nắm trong tay lại hơn cái sức của họ rồi nên làm cho họ mờ mắt các con. Cái tâm tham chúng ta không đáy. Cho nên chúng ta hãy luôn yêu thương người đó, đừng nói gì hết, những tội lỗi đó Thầy chịu. Các con biết đạo đức là vô giá, không có tiền bạc nào trả được, mà hôm nay họ đã ra công làm cho chúng ta có những cuốn sách đạo đức để đọc. Ơn ấy chưa đền, sao lại nỡ tâm nói họ xấu? Có phải không mấy con?


365- THIỀN ĐỊNH CỦA NGOẠI ĐẠO MẠO DANH PHẬT GIÁO

 

365- THIỀN ĐỊNH CỦA NGOẠI ĐẠO MẠO DANH PHẬT GIÁO

(40:41) Cho nên khi mấy con trải qua những cái hơi thở rồi mấy con tu để ly dục, ly ác pháp thì người ta sẽ lần lượt…​ Đến khi các con tu ở trong Chánh Niệm, tức là trên Tứ Niệm Xứ thì người ta dẫn dắt tới đó rồi người ta hướng dẫn từ một giờ cho đến hai giờ, cho đến một ngày, hai ngày…​ Người ta hướng dẫn cho mấy con đến khi tâm con bất động hoàn toàn trên Tứ Niệm Xứ, tức là "Trên thân quán thân". Suốt bảy ngày đêm mà tâm bất động như vậy, cái tâm mà quán thân như vậy thì nó sẽ đủ Tứ Thần Túc, bốn cái lực như Thần gọi là Tứ Thần Túc. Tứ là bốn, Thần là Thần lực, túc là đủ, muốn cái gì nó làm đủ cái nấy. Thí dụ như Dục Như Ý Túc, các con muốn thân tâm con làm cái gì thì nó làm cái đó, muốn chết nó chết mà muốn sống nó sống, đó gọi là Dục Như Ý Túc.

Định Như Ý Túc là mấy con sẽ nhập các định, muốn nhập định nào nó sẽ nhập định nấy. Bây giờ, từ lâu tới giờ mấy con không biết cái “Không Định” như thế nào thì nó sẽ nhập vào Không Định. Con bảo thân tâm con phải nhập vào Không Vô Biên Xứ Định thì nó sẽ nhập vào Không Vô Biên Xứ Định. Nó chẳng biết cái đó là như thế nào hết, mà con ra lệnh thì nó vào đúng y, không trật. Con bảo nhập Sơ Thiền, nó nhập Sơ Thiền, mà bảo nhập Tứ Thiền, nó nhập Tứ Thiền. Bởi vì cái lực Định Như Ý Túc, định như ý mình muốn mà! Còn mấy con chưa có Định Như Ý Túc mà mấy con ngồi thiền nhập định, đó là mấy con sẽ nhập sai hết. Mấy con ức chế ý thức, mấy con sẽ lạc, lọt vào Không Tưởng, Không Vô Biên Xứ Tưởng. Mấy con sẽ lạc vào Không Tưởng, vào Không Tưởng thì mấy con sẽ không còn đường đi tới nữa.

Cho nên có một số Sư Thầy khắp ở trên thế giới chứ Thầy không nói riêng ở Việt Nam đâu, có một số người rất là nỗ lực tu tập nhưng họ lạc vào Không Vô Biên Xứ Tưởng. Họ ngồi một, hai ngày thiền được, họ ngồi một, hai giờ thiền bất động được nhưng họ lọt vào trong Không Vô Biên Xứ Tưởng. Các con có thấy nhục thân của ngài Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường không? Thầy nói đây, thì mấy con sẽ thấy cái nhục thân đó ở tại chùa Đậu chứ? Người nào có đến miền Bắc là chúng ta đến thăm chùa Đậu là thấy nhục thân chứ sao? Các ngài đều lọt trong Không Tưởng mà để nhục thân đó mấy con, chứ đâu phải đúng đâu? Vì ngài nhập trong Không Tưởng ngài để lại nhục thân thì chúng ta thấy quá tuyệt.

(43:02) Bên Trung Hoa có nhiều vị Sư, thậm chí như Lục Tổ Huệ Năng cũng để lại nhục thân, Ngài Hán Sơn cũng để lại nhục thân ở bên Trung Quốc. Nhưng những hài cốt đó để lại để mà chơi chứ sự thật các ngài đều lọt trong Không Tưởng. Nếu mà các ngài tu đúng để ly dục, ly ác pháp để nhập được như Phật làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì hôm nay chúng ta có sách vở của các ngài để lại con đường tu để làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Các ngài đâu có sách vở dạy chúng ta cách thức tu làm chủ sanh, già, bệnh, chết? Như vậy rõ ràng là các ngài hoàn toàn là ở trong pháp tưởng giải ra mà tu tập, lọt trong Không Vô Biên Xứ Tưởng. Thầy xác định rất là rõ ràng, bởi vì sách vở chứng minh.

Cũng như bây giờ Thầy nhập định mà Thầy làm chủ được sự sống chết, cho nên sách Thầy viết y như những gì mà đức Phật đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết, có phải không? Thầy có tịch đi 1000 năm đi nữa sách này nó cũng đều còn hoài chứ làm sao mất được, có phải đúng không? Một vị Sư mà tu chứng cái gì thì người ta để lại cái đó, mà cái đó có đúng với Phật pháp hay không?

Bây giờ mình nhìn lại qua kinh sách Đại thừa, qua Thiền Đông Độ mình thấy để lại những phương pháp tu đó không làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Một vị Thiền sư, như vị Thiền sư, Ngài gì mà qua Việt Nam dạy thiền (Thầy) quên rồi…​ Ngài Duy Lực, có phải không? Mà xe đụng ngài không biết, tâm Ngài thanh tịnh chỗ nào mà tại sao Ngài đi đường mà Ngài không biết, để xe đụng mình chết? Một người mà tâm thanh tịnh làm sao mà thân họ có bệnh được mấy con? Tâm mà thanh tịnh thì cái thân phải thanh tịnh chứ sao! Bệnh nào mà vô được, ác pháp nào vô tác động được thân họ?

Cũng như Thầy bây giờ tám mươi mấy tuổi rồi, bệnh nào dám tác dụng vào thân Thầy, có phải không? Mấy con thấy không, Thầy có bao giờ mà đi nằm nhà thương như quý Hoà Thượng đâu? Rõ ràng là Thầy đã làm chủ được bệnh, vì do thân tâm Thầy thanh tịnh, chứ tâm Thầy mà không thanh tịnh, nó còn ham dục, nó còn ham ăn, ham ngủ, nó còn ham này, kia…​ Thầy chưa làm chủ được nó thì sao làm chủ được bệnh? Các con thấy rõ.

(45:16) Thí dụ như bây giờ có một vị Thầy cũng là dạy người ta tu thiền; dạy người ta tu thiền mà đi nằm nhà thương thì thiền này chưa phải là thiền. Thiền thì làm sao nằm nhà thương, nó thanh tịnh làm sao bệnh nó vô thiền được mà nói vô? Tâm thiền thì thân thiền, tâm định thì thân định. Mà Thiền Định thì làm sao có những ác pháp tác động vô được? Mà thân bệnh là ác pháp chứ gì? Các con hiểu chỗ đó. Cho nên không làm sao ác pháp mà tác động được thân tâm của người đó thì làm sao mà người đó bệnh, làm sao đi nằm nhà thương? Điên gì mà không bệnh đi vô nhà thương nằm, có phải không? Có bệnh mới đi nằm nhà thương mấy con.

Cho nên ở đây là mục đích mà Thầy dựng lại con đường tu tập của đạo Phật để làm chủ bốn sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết như Phật ngày xưa. Phật đã tìm thấy được con đường tu tập để làm chủ bốn sự đau khổ này, truyền dạy lại chúng ta. Sau đó các ngài tu tập không làm chủ được bốn sự đau khổ, kiến giải ra để biến thành một cái đường lối mê tín cầu an, cầu siêu,…​ Cầu khẩn thôi chứ còn không cách nào khác, còn Thiền Định thì lọt trong không.

Cho nên một vị Thầy dạy tu Thiền Định mà còn sám hối thì làm sao mà Thiền Định? Thiền định là chuyển nhân quả thì sám hối…​ Có lỗi lầm gì đâu mà sợ. Các con thấy không, đâu có cần gì mà phải sám hối? Bởi vì khi mà Thiền Định thì "Tâm Bất Động, thanh Thản" thì nó còn cái niệm nào mà gọi là ác pháp trong đó mà gọi là sám hối?

Đi ra thì người Thiền Định đi ra tỉnh thức hẳn hòi. Bước đi thì người ta nhìn, người ta rất rõ con trùng, con dế, con kiến dưới chân người ta đã tránh, người ta có đạp đâu mà phải sám hối. Các con hiểu không? Người ta Thiền Định thì người ta rất tỉnh táo, người ta bao giờ mà nạt nộ la lối người khác đâu mà phải sám hối? Bởi vì người ta luôn luôn lúc nào người ta cũng nhẹ nhàng, ôn tồn…​Đó là Chánh Nghiệp của người ta mà, chứ người ta đâu có ác nghiệp đâu! Mấy con thấy rõ chưa? Còn cái này mình la lối, mình làm cho người ta sợ hãi…​ Đó là ác pháp thì mình còn sám hối, mà sám hối để làm gì đây? Sám hối mình có sửa được hay không, hay là mình sám hối để chư Phật gia hộ cho mình, để hết tội rồi mai mốt làm tội nữa sao? Cái chuyện đó không bao giờ có chuyện đó đâu. Cho nên ở đây Thầy không dạy mấy con sám hối, mà chính mấy con phải sửa mình đừng làm điều ác, đừng làm điều sai. Tự cứu mình bằng phương pháp, bằng cách tu tập để giữ tâm mình bất động không có ác pháp nào tác động vào trong đó được. Đó là cách thức tu.


364-ĐẠO PHẬT CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA NGOẠI ĐẠO

 

364-ĐẠO PHẬT CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA NGOẠI ĐẠO

(46:40) Ngày xưa đức Phật đã chỉ dạy con đường đó, mà đức Phật mất rồi thì con đường đó lần lượt có còn không? Hay kinh sách Đại thừa nó phủ lên? Hay Thiền tông nó phủ lên? Nó phủ lên một lớp như thế này thì chúng ta chỉ biết là tu thiền là vậy, tu Tịnh Độ là vậy thôi họ chẳng biết cách nào khác hơn. Dạy làm sao mấy con tu như vậy chứ các con biết sao mà sửa. Đó mấy con thấy không, cái sai của nó rất lớn.

Và mấy con biết, Phật giáo nó đi truyền qua, Phật giáo thì đúng cái pháp của nó rồi, nhưng mà nó truyền qua cái đất nước đó, rồi cái dân tộc đó nó ảnh hưởng của một cái tư tưởng của đất nước đó. Ví dụ như bây giờ truyền qua Trung Hoa nè, thì Trung Hoa nó phải có cái văn hóa của Trung Hoa của nó. Thì những người mà có khả năng, có văn hóa như là Nho giáo Khổng Tử, như Lão giáo, nó có cái tinh ba của cái văn hóa đó, nhưng mà rốt ráo như Phật không có. Nhưng mà khi đạo Phật truyền qua thì những người mà người ta giỏi đó, người ta thông suốt thì người ta chịu ảnh hưởng những cái tư tưởng đó rồi. Cho nên từ cái chỗ đó, người ta hiểu Phật giáo, người ta chuyển đổi, người ta hiểu theo cái kiến giải đó, người ta chuyển đổi Phật giáo làm cho Phật giáo nguyên gốc của nó bị thay đổi theo cái hiểu của cái tôn giáo đó, của cái tinh ba của những cái người truyền dạy đó.

Cho nên mấy con thấy, khi mà nó truyền qua Trung Quốc thì nó ảnh hưởng Nho giáo. Nho giáo thì nó có cái tinh thần của gia đình cho nên vì vậy nó cúng bái, nó có cái vẻ tôn kính tổ tiên. Nho giáo mà, cái đạo đức của nó là cái đạo đức nhân đạo mà, cho nên nó đâu có quên cái ơn của người xưa đâu. Cho nên khi nó ảnh hưởng này, nó biến Phật giáo thành mê tín mấy con. Cúng bái rồi. Các con hiểu không? Cúng bái có phải Nho giáo không? Nhưng mà khi nó ảnh hưởng Trang Tử, nó ảnh hưởng Lão Tử, thì nó là vô vi, cho nên mới đẻ ra Thiền tông. Cho nên vì vậy mà ức chế ý thức của chúng ta, nó lọt vào không tưởng. Vô vi là không tưởng chứ cái gì? Các con thấy nó ảnh hưởng của Lão Tử mà. Các con thấy chưa?

(48:51) Cho nên trong khi đó nó ảnh hưởng mà nó đâu phải là Phật giáo đâu. Cho nên Phật giáo qua đây ảnh hưởng rồi bắt đầu truyền qua Việt Nam của mình thì Việt Nam của mình, toàn dân Việt Nam cũng bị ảnh hưởng theo nó mà thôi. Cho nên Phật giáo Nam Tông mà từ ở Lào hoặc Campuchia mà truyền sang qua Việt Nam của mình, thì dân tộc Việt Nam bị ảnh hưởng cái tư tưởng đó rồi, cho nên thâm nhập vô không được. Cho nên vì vậy các chùa như ở Sóc Trăng này kia, một hai chùa Nam tông, đến đó thôi dừng lại chứ không có truyền vô sâu được. Nó không theo mà làm sao truyền? Vì dân tộc Việt Nam mình nó không theo mà nó theo Trung Hoa, theo Phật giáo Trung Hoa.

Cho nên theo Phật giáo Trung Hoa thì nó hợp với tinh thần đạo đức cúng bái, cho nên nó trở thành Phật giáo mê tín. Còn nếu mà nó ảnh hưởng của Lão Tử thì nó vô vi thì nó biến thái ra Thiền Tông. Các con thấy rất rõ phải không? Vậy nó ở cái chỗ tâm không vọng tưởng mà, vô vi. Tất cả những cái này chúng ta đều ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa. Rồi bắt đầu bây giờ đó, nếu mà Thầy không xác định, không chỉ định để mà triển khai Phật giáo Việt Nam của chúng ta. Cho nên Thầy triển khai Phật giáo Việt Nam, đem cái nền đạo đức của Phật giáo, đạo đức nhân bản - nhân quả. Khi mà dựng lại cái nền đạo đức xong, và hướng dẫn cho một số người làm chủ sinh, già, bệnh, chết, thì tất cả Phật giáo của Việt Nam ra sẽ là hướng dẫn thế giới.

Bởi vì Phật giáo của Trung Hoa nó không làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà đi vào cái chỗ mà vô vi mê tín đấy thôi. Các con có hiểu không? Rồi Phật giáo thế giới nó ảnh hưởng bây giờ truyền qua Nhật Bản cũng như thế đó thôi, đâu có gì khác nữa hết. Nước này nước kia nó chỉ chung chung, là Phật giáo cũng như vậy thôi, chứ không có gì mà khác mới mẻ. Khi nào mà Việt Nam chúng ta chấn chỉnh lại được Phật giáo, dựng lại cái sự tu tập, chúng ta làm chủ sinh, già, bệnh, chết, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống, đúng như thời đức Phật. Và cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người được phổ biến rộng, thì coi như đất nước Việt Nam chúng ta làm Phật giáo truyền sang ra thế giới, vì lợi ích chung cho loài người mà. Mà nó sẽ tạo thành cái uy tín của Phật giáo Việt Nam rất lớn, vì nó khác đi. Nó có cái đường lối khác của nó. Nó làm cho dân tộc của chúng ta có một cái danh dự rất lớn. Và mấy con là những người nỗ lực tu, là những người cùng Thầy xiết chặt vòng tay để dựng lại cái Chánh pháp của Phật.

(51:17) Cho nên Thầy biết mấy con tu cũng khổ cực lắm chứ không phải là không khổ cực. Nhưng mà cái khổ cực đó thứ nhất là lợi ích cho mấy con, thứ hai là lợi ích cho mọi người xung quanh mình, thứ ba là lợi ích cho đất nước của chúng ta, và cuối cùng thì lợi ích cho cả thế giới. Bởi vì đó là đúng Chánh pháp của Phật. Bởi vậy Thầy có gắng hết sức mình. Nhưng Thầy thấy tuổi của mình càng ngày càng già, nó không thể kéo dài lâu hơn. Thầy mong mấy con tuổi còn trẻ nỗ lực. Thầy nói 7 tháng mấy con vô tu tập đi rồi mấy con sẽ thấy.

Cho nên Thầy nhắc thầy Mật Hạnh với Cô Trang sắp xếp sao cho ổn đi, vô thất mà tu đi, chứ bây giờ cứ nhận người thêm vô, thêm vô đây rồi, cứ chạy tới, chạy lui rồi người nào cũng tu lừng chừng, lừng chừng như vậy thôi rồi. Chắc chắn mà Thầy ra đi rồi, thì Phật giáo cũng mất đi nữa, uổng lắm mấy con!

Rồi cuộc đời cũng bị ái kiết sử, rồi tất cả các pháp đều chi phối mấy con, rồi sự này sự kia, cuối cùng thì chết đi, chẳng mang được gì hết. Cho nên khi còn Thầy thì nhắc nhở tới lui, nhưng mà Thầy mất rồi thì không còn ai nữa đâu.

Chúng ta chỉ đến một cái giảng đường để nghe thuyết giảng, nói chung chung chơi thì hay, nhưng mà về biết đâu mà làm. Các con đi tất cả các giảng đường đến nghe thuyết pháp nhưng mà rồi thì cô động lại một cái phương pháp tu để đi đến chỗ sinh, già, bệnh, chết thì chắc chắn không có cái giảng đường dạy chúng ta cách thức làm chủ sinh, già, bệnh, chết.

Niệm Phật cầu vãng sanh thì cũng chỉ là tưởng mà thôi. Còn sống trong thiền định mà lọt trong không tưởng thì có đi đến đâu. Cho nên tu tập, nhưng mà mình đâu có hiểu gì? Dạy sao thì chỉ tin vậy thôi. Nhưng cuối cùng cuộc đời của mình bỏ ra công sức nhưng mình được những gì đây.

Nhìn từ cái khoảng thời gian mấy trăm năm nay, biết bao nhiêu các vị thầy, các vị Hòa Thượng này kia dạy, nhìn lại coi có người nào đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết chưa? Người nào cũng đến già rồi cũng đi nhà thương, cũng bác sĩ, cũng này kia. Đó là cái hiện tượng mà chúng ta nhìn thấy không làm chủ được bệnh. Thì mấy con, bằng chứng mấy con thấy. Các bậc mà tôn túc, các bậc mà Thầy của chúng ta rất là khổ đau, tại vì các bậc Thầy không phải là những người không tu tập, rất tu tập mấy con. Như mấy con lớn tuổi mấy con biết, khi mà đến chùa Ân Hoa thì biết Hòa Thượng Thiện Hòa là một con người rất là uy tín về đức hạnh và đồng thời Ngài không rời xâu chuỗi của Ngài, Ngài niệm Phật hết sức mình. Nhưng đến khi Ngài chết quá khổ, bán thân…​ Khổ!

(54:03) Cho nên Thầy nhắc nhở mấy con lấy những cái gương đó, mình phải tu ngay. Đời sống của mình còn sống mà mình muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống. Bệnh đau tác ý đuổi đi, không sợ bệnh nào hết. Thì mấy con thấy, Thầy dạy mấy con có cơ bản. Khi mà mình muốn được như vậy, thì đầu tiên mình đuổi bệnh bằng Đề Mục Hơi Thở, kế đó sau đó mình dùng tâm bất động mình đuổi bệnh mà thôi. Cho tôi coi bệnh có đi không. Mấy con sẽ tác ý, bệnh đi mất hết: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Ngồi đây mặc tình, đau gì đau tao không sợ.” Mình cứ im lặng phăng phắc, cứ giữ tâm bất động, đừng có để ý trong cái thân đau của mình. Nhưng cuối cùng cơn đau đó sẽ mất. Đó mấy con thấy không, đó là mình làm chủ cái bệnh trên tâm bất động. Tâm bất không có ác pháp nào tác động vô được.


363- CÁC TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

 

363- CÁC TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

(54:18) Trưởng lão: Bây giờ người ta cũng nói, ví dụ như bây giờ Phật giáo nó truyền qua Trung Quốc, rồi Trung Quốc nó có cái văn minh của nó. Nó có cái Khổng Tử, rồi nó có Lão Tử ở trong đó, nó có Tiên đạo, nó có Nhân đạo đó, có Tiên đạo ở đó. Sau khi Phật giáo truyền sang qua thì nó ảnh hưởng của Khổng Tử đó, thì nó đẻ ra cái Pháp môn Tịnh Độ. Nó đẻ ra cái pháp môn mê tín cúng bái cầu khẩn. Đó mấy con thấy không? Nó do ảnh hưởng của Khổng Tử là Nhân đạo.

Cho nên nó có cái lòng tin tưởng này kia, nó sanh ra cái pháp mê tín. Chứ Phật giáo đâu có dạy mê tín, mà nó ảnh hưởng Lão tử, là bên Trung Hoa là nó có Lão Tử, Tiên đạo. Nó ảnh hưởng Tiên đạo thì nó Vô vi, nó biến thành ra Thiền Tông.

Cho nên vì vậy mình dùng ý thức mình, mình diệt cái ý thức của mình để trở thành vô vi chứ gì, giống như Lão Tử chứ gì? Cuối cùng thì Phật giáo ảnh hưởng của Lão Tử mà đẻ ra Thiền Tông. Nó đưa đến cho Phật giáo sai, là tại chỗ người ta, cái tư tưởng người ta bị ảnh hưởng cái tinh thần của một tôn giáo của người ta. Cho nên người ta hiểu Phật giáo qua cái góc độ này, rồi người ta hướng dẫn mọi người tu theo. Cho nên Thiền tông chẳng qua là ảnh hưởng của Lão Tử, chớ không có gì hết.

Cho nên Phật giáo mà Thiền Tông truyền sang qua Việt Nam đó thì do Trung Hoa. Chớ bây giờ ở Lào hay hoặc Miến Điện, Campuchia mà truyền Phật giáo qua thì nó là Nam Tông chứ không có Thiền tông được, mấy con hiểu chỗ đó chưa? Cho nên vì vậy mà góc độ Phật giáo truyền đâu thì nó ra đó.

(56:03) Nhưng Việt Nam mình chịu ảnh hưởng của Trung Hoa rất lớn về tinh thần của Phật giáo. Cho nên Nam Tông mà nó truyền qua, nó vô đây ăn khách không được, mình không có chấp nhận. Cho nên vì vậy mà vô thì một hai chùa nho nhỏ gần ranh giới Miên đó thì thôi, chớ không có vô sâu được. Vô sâu thì người Việt Nam mình không chấp nhận, bởi vì nó ảnh hưởng của Trung Hoa nó cai trị mình lâu quá, cho nên mình ảnh hưởng cái tư tưởng Phật giáo của Trung Hoa truyền sang, cho nên nó sâu quá, cho nên nó không chấp nhận cái Nam Tông.

Cho nên Nam Tông sau này đó, nó có cái duyên là người miền Nam của chúng ta nó gần Campuchia, nó sanh ra một cái pháp để nó hòa hợp với Đại Thừa, với Nam Tông, nó mới đẻ ra cái phái Khất sĩ. Đó các con thấy chưa? Nó mới vấn y vấn, rồi nó mới đi khất thực, đó là cái hình thức của Nam Tông. Nhưng trong khi tu tập thì nó vẫn niệm Phật, thì nó cũng là Đại thừa, các con thấy không?

Cho nên Phật giáo mình, con người Việt Nam của mình nó hay lắm. Nó tiếp nhận, rồi tự nó, nó biến hóa, nó phối hợp lại. Nó làm một cái Phật giáo Việt Nam một cái ô hợp, nó không đúng.

Cho nên Thầy thấy, khi mà tu Thầy làm chủ được rồi, Thầy thấy cái này là cái nguy hiểm cho dân tộc mình. Bởi vì cái tư tưởng tôn giáo trong mỗi người nó là cái nhu cầu cần thiết cho tinh thần con người. Mà cái nhu cần thiết tinh thần của con người là phải đúng, mà sai là con người biến con người trở thành mê tín dị đoan, lạc hậu đó. Mà nếu mà nó cục bộ thì nó đưa con người đi đến cái chỗ chết, chỗ chết là cứng ngắc như là Thiền tông, diệt ý thức của mình, thì nó rất là khổ.

Nhưng may là mình chưa có những người quyết tâm, nhiệt tâm tu. Chớ nếu mà quyết tâm, nhiệt tâm tu, mà nỗ lực thật sự, thì cái số người này điên rất nhiều, nếu mà cứ theo Thiền tông. Bởi vì mình diệt ý thức mình thì lọt trong Không, mà lọt trong Không thì kể như là ý thức không hoạt động. Không hoạt động thì cái người đó vô phân biệt.

Ai chúng ta đi ra đường mà chúng ta không mặc quần áo, ở truồng đi thì không phải người ta nói mình điên sao? Nhưng ông này nói “tôi vô phân biệt”, lúc bấy giờ ai nói gì ổng, ổng nói “vô phân biệt”, cái kiểu của ông vô phân biệt thì cái phong tục tập quán của dân tộc chúng ta nó không cho phép ổng làm cái điều đó thì không được.

(58:23) Cho nên các con thấy Hòa thượng Phước Hậu, chùa Phước Hậu ở Việt Nam chúng ta mà, cho nên Hòa thượng Phước Hậu nói ông này ổng nói:

Kinh điển Phật truyền tám vạn tư,

Tu hành không thiếu cũng không dư,

Đến đây thì đã như quên hết,

Chỉ nhớ trong đầu một chữ Như.”

Viết chữ Như tức là chữ Không đó. Bát Nhã đã nói “sắc tức thị không - không tức thị sắc”, đó là Tâm Kinh Bát Nhã đó, lấy cái chữ Không. Cho nên ổng thấy có chữ Như trong đầu của ông thôi, còn bao nhiêu cái gì ổng vứt hết, không có biết hết, ổng bỏ hết.

Cho nên mà đến khi mà qua sông đó, thì hai thầy trò mới đội quần áo mới qua sông. Nhưng mà lên xong thì ông học trò đội quần áo của ổng đi sau, còn ông thầy ở truồng đi trước, cứ đi hoài. Ông học trò mới kêu ông thầy: “Thầy ơi, thầy mặc quần áo chớ thầy đi không có được.” Thì ông thầy ổng mới nhớ. Ổng mới nghe kêu ổng đứng lại, “Như vậy là ta chưa mặc quần áo sao?” Thì ông học trò ổng nói: “Thầy có mặc quần áo đâu!

Đó là những cách thức tu sai mấy con. Tại vì ý thức của chúng ta hoàn toàn hoạt động, chúng ta hoàn toàn đứng ở trên đạo đức của con người, không có làm một cái chuyện mà thiếu phân biệt suy nghĩ.

Còn bây giờ, thí dụ chúng ta chứng cái gì đây, làm cái gì đây? Nhưng ý thức của chúng ta muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống. Còn bây giờ ông không có gì được hết, đau bệnh thì ông phải nằm nhà thương, không đối trị được bệnh ông. Thì ông lấy cái tâm mà “viên như” đó để làm cái gì đây, các con thấy chưa?


362 PHÂN BIỆT THIỀN VIỆT NAM VÀ THIỀN TRUNG QUỐC

 

362 PHÂN BIỆT THIỀN VIỆT NAM VÀ THIỀN TRUNG QUỐC

(2:08:02) Trưởng lão: Ráng tu tập bền chí đừng có nghe nó dụ rồi đi về, lang mang, nói nay tu mười năm rồi, thôi để đi về thăm chút rồi ráng tu. Cái kiểu đó nó nối cái ái kiết sử cho nhiều ở trong gia đình chứ không có làm được gì hết.

Thôi rồi, mấy con thấy thế nào, ráng mà nỗ lực tu đi con, sự thật ra tu là khó chứ không phải dễ, nhưng mà bền chí là thành công. Mà cái pháp của Thầy đó nó đã cô đọng trở lại, nó thành ra cái phương pháp giải thoát từng phút, từng giây. Nghĩa là mình giữ được một giây là mình đã có giải thoát được một giây, mà hai giây có giải thoát hai giây, một phút có giải thoát một phút. "Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự", thì trong một phút mà tâm bất động thì nó là giải thoát một phút, chứ mình đâu cần đòi hỏi nhiều. Nhưng mà tôi tu tập tới một cái ngày nào đó, tôi sống với nó luôn, thành ra cái lý do đó tôi thành Phật. Có gì đâu!? Phật cũng tâm bất động chứ có gì khác hơn tôi, ông Phật đâu có hơn tôi cái chỗ nào đâu!? Ông Phật đâu có cái gì bằng tôi đâu. Cho nên tôi cũng như Phật, Phật cũng như tôi thôi, mà bây giờ tôi làm như Phật thì Phật đâu có hơn tôi cái gì, đó thì mấy con thấy rất rõ. Cho nên ở đây đó Thầy dạy mấy con một cái phương pháp, để giúp cho cái người lớn tuổi cũng như cái người trẻ tuổi, mà không phí cái thì giờ.

Còn mấy con cứ ôm những cái điều mà kiến giải, tưởng giải để mà giải kinh sách của Phật đó, mà Thầy đã viết ra để cho Đại thừa người ta đừng có nói Thầy là cái người dốt, chỉ biết Tâm Bất động thôi không biết gì hết, các con hiểu chưa? Bây giờ các ông Thầy Đại thừa dám nói Thầy không biết không? Các con hiểu cái điều đó. Mà bây giờ các con cứ lấy cái sách mà Thầy đập vỡ ba cái ông pháp Đại thừa này xuống, mà mấy con cứ lấy đó mà tu tập thì trời đất ơi! Quá tệ!

Thầy cho cái pháp nào thì cứ ôm cái pháp đó tu đi mấy con sẽ thấy giải thoát, có phải không? Mấy con thấy không? "Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự". Ngồi đây á, thấy mình có tu cái gì đâu, nhưng mà giải thoát là giải thoát, chứ đâu phải giải thoát ở trong cái pháp gò bó mà gọi là giải thoát, mấy con thấy không? Ngồi như quý thầy, ngồi chơi vậy đó, nhưng mà thấy tâm mình bất động là được rồi, có gì đâu, thấy không? Mấy con hiểu chưa?

(2:10:16) Cho nên Phật pháp mà! Bởi vậy Thầy mới lấy cái câu mà Đức Phật nói: "Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy". Không tu thôi, tu trong một phút thì tôi thấy giải thoát một phút, mà hai phút thì tôi thấy giải thoát hai phút. Tôi bây giờ là cái người giải thoát từng phút, từng giây, tôi không cần nhiều. Nhưng mà tôi nỗ lực tôi tập sống cho được chừng nào mà hoàn toàn tôi sống được ngày này, qua ngày khác, y như vậy tâm bất động là tôi đã giải thoát. Chứ không phải là tôi ngồi thiền nhiều là giải thoát, mà tôi ngồi ức chế ý thức của tôi không niệm là tôi giải thoát. Nếu mà giải thoát được như vậy thì mấy ông Tổ của Thiền tông Trung Quốc nó đã giải thoát hết rồi.

Cho nên ở đây đó, Thầy nói tới chừng mấy con đủ cái lực mấy con làm chủ Sanh, Già, Bệnh, Chết, thì chừng đó thì mấy con ở trong Tâm Bất động nó ra chứ không phải là chỗ khác, mà bây giờ tâm mấy con chưa bất động, thì nó chưa có thành tựu thôi, có vậy thôi.

Cho nên cái chỗ tác ý nó cần. Còn cái chỗ mấy con nhiếp tâm mà ngồi nó bất động, nó im phăng phắc nó mất cái tác ý của mấy con rồi thì nó, cái ý thức của mấy con nó không có khởi niệm, nên mấy con đâu có tác ý, mà mấy con không tác ý thì nó thuộc về Thiền Đông Độ mất rồi, vô vi của Lão tử rồi. Mấy con muốn theo Lão tử làm Tiên thì mai mốt lên núi ở trên đó làm Tiên, phải không? Theo Lão tử làm Tiên đi, có vậy thôi. Còn mấy con mà cúng bái cầu khẩn đó, thì theo Khổng tử mà cúng bái, cầu khẩn. Chứ còn ở Việt Nam của mình thì chỉ có Tâm - Bất động - Thanh thản - An lạc - Vô sự.

Ở Việt Nam mình thì có Thiền của Việt Nam, có phải không? Việt Nam thì có Thầy dạy Tâm - Bất động - Thanh thản - An lạc - Vô sự, ly dục, ly bất thiện pháp. Còn của Trung Quốc thì biết vọng liền buông hoặc là không có cho ý thức mình khởi niệm, hoặc là niệm Phật cho nhất tâm bất loạn để cho cái ý thức của mình bị diệt thôi, đó là thiền Tịnh Độ của Trung Quốc chứ không phải là của Việt Nam.

(2:12:17) Còn của Việt Nam mấy con thấy Trung Quốc có giống không? Tâm - Bất động - Thanh thản, chỉ Việt Nam mình có à! Mà Việt Nam của mình đúng là lời Phật dạy "Có Như Lý Tác Ý lậu hoặc chưa sanh sẽ không sanh, mà đa sanh thì bị diệt" có đúng không? Thầy dạy đúng theo lời của Phật dạy mà Hòa thượng Minh Châu là cái người dịch ra câu đó, chứ không phải Thầy dịch, các con thấy chưa? Hòa thượng Minh Châu là người có công dịch từ tiếng Pali ra Việt Nam của chúng ta, Việt ngữ. Thì bây giờ đó, cái câu đó là câu của Hòa thượng chứ không phải là Thầy đặt ra Thầy dịch, mà Hòa thượng Minh Châu dịch.

Thầy chỉ giải thích nghĩa lý lời Phật dạy như vậy để lậu hoặc chúng ta không có sanh ra và bị diệt lậu hoặc. Lậu hoặc là sự đau khổ của thân tâm của chúng ta, chứ không phải là cái gì, mà trong kinh chỉ dùng danh từ gọi là lậu hoặc, có vậy thôi, chứ không có gì khác.

Thì bây giờ mấy con yên tâm, mấy con biết Thầy dạy đúng Phật pháp, không sai! Cứ lật tạng kinh Nguyên Thủy của Phật dạy thì mấy con thấy lời Phật dạy là không sai. Bốn tập Những lời Phật Dạy đó Thầy đã viết rồi. Còn Đường Về Xứ Phật thì chẳng qua Thầy trả lời vậy thôi. Chứ bốn tập Đường Về Xứ Phật (Những lời Phật Dạy) thì mấy con đủ rồi, đủ niềm tin rồi không cần gì để hỏi Thầy! Chỉ như vậy thôi là có giải thoát.

Thôi bây giờ xong rồi phải không? Còn hỏi gì nữa, hết rồi. Thôi về tu Tâm - Bất động - Thanh thản - An lạc - Vô sự. Chúc mấy con thành công! Sống trong Tâm Bất Động trong năm mới. Rồi bây giờ Thầy về.

(2:13:58) Tu sinh nữ: Thưa Thầy! Con bây giờ là nó cứ quay vô nó nhìn cái thân của nó, chứ nó không con nhìn ra ngoài nữa.

Trưởng lão: Vậy là tốt thôi chứ không có gì đâu. Con đừng có nhìn ra ngoài đừng có tiếp duyên với ai hết, đừng có nhìn ngó thất ai nữa hết thì tốt, rồi! Thôi Thầy chào mấy con thấy về.

Tu sinh: Chúng con cảm ơn Thầy!

HẾT BĂNG


361- ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC

 

361- ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC

(1:19:16) Nhưng mà để đứng về mặt tôn giáo, là về Phật giáo thì chúng ta bị ảnh hưởng trọn vẹn của Trung Quốc, của Phật giáo Trung Quốc. Cho nên sau này Trần Nhân Tông là một cái người muốn xây dựng một cái Phật giáo Việt Nam. Cho nên Ngài mới xây dựng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ngài xây dựng cái nền Thiền, nhưng Ngài hợp lại Tịnh Độ và Thiền Tông của Trung Quốc. Cho nên Ngài hợp lại như vậy, mà Thiền của Ngài nó có cái sự mà lạy sám hối. Mấy con theo Thiền Trúc Lâm thì mấy con thấy. Hòa thượng Thanh Từ dạy thì coi như là đúng Trần Nhân Tông thì phải sám hối. Mà sám hối thì tức là nó là Tịnh Độ rồi. Các con hiểu chưa? Rồi còn tu tập thì y như Thiền Đông Độ. Nhiếp tâm cho vọng tưởng không khởi niệm. Chứ nó đâu có khác cái gì đâu, nó đâu có gì mới đâu.

Còn ở đây trong Kinh sách Nguyên Thủy của đức Phật dạy chúng ta: “Ly dục, ly ác pháp” chứ không phải diệt ý thức. Mà ly dục, ly ác pháp bằng ý thức của chúng ta. Như hồi nãy Thầy dạy mấy con: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”. Rồi ngồi im lặng để lắng nghe sự bất động của tâm, rồi tác ý nữa. Cứ tác ý như vậy, rồi lần lượt nó tăng dần cái thời gian, chứ không phải ngồi ức chế ý thức của chúng ta. Còn mấy con ngồi cứ ức chế ý thức của chúng ta thì bằng cách này, bằng cách khác. Bây giờ biết vọng liền buông, có niệm buông liền. Có niệm buông liền, buông liền, buông liền cho đến khi hết niệm. Sự thật ra cái điều này rất khó.

Cho nên đâu bằng người ta niệm Phật: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật”. Mắc niệm Phật, cho nên niệm nó không có. Vì vậy mà cố gắng, có người niệm Phật được bảy ngày đêm nhất tâm. Thì khi mà ý thức nó không hoạt động thì tưởng thức nó sẽ hoạt động. Thì họ rơi trong cái thế giới Cực Lạc tưởng mất rồi, nó cũng là sai rồi. Mà nếu người tu thiền mà biết vọng liền buông, buông riết hết vọng rồi thì nó rơi trong Không tưởng. Cũng rớt trong Không tưởng, nó đâu có thiền gì được đâu.


360-KHÁI QUÁT ĐẠO PHẬT TRUNG QUỐC VÀ ĐẠO PHẬT VIỆT NAM

 

360-KHÁI QUÁT ĐẠO PHẬT TRUNG QUỐC VÀ ĐẠO PHẬT VIỆT NAM

(52:44) Đây hôm nay Thầy nói thật, chúng ta là người Việt Nam mà không tu thiền Việt Nam mà tu Thiền Đông Độ, tu thiền của Trung Quốc, theo Phật giáo của Trung Quốc. Thứ nhất là Tịnh Độ mê tín, cúng bái, cầu siêu, câu an, mà Đức Phật bảo ba mươi ba cõi Trời là tưởng tri chứ đâu phải liễu tri, làm sao có thế giới siêu hình, làm sao có linh hồn mà cầu cứu. Thế mà Tịnh Độ, Tịnh Độ lại ảnh hưởng, ảnh hưởng những nhà hiền triết của Trung Quốc tức là Khổng Tử, là một nhà hiền triết của Trung Quốc, ngài mới đẻ ra những cái phương pháp cúng tế. Do đó Phật giáo truyền sang qua thì cái tư tưởng cúng tế này đã biến Phật giáo thành một cái giáo tín bái, cầu cúng. Trung Quốc còn một vị gọi là lão tử, Ngài xây dựng một cái tư tưởng Vô Vi cho nên lúc bây giờ khi Phật giáo truyền sang qua đất nước Trung Quốc mới đẻ ra phái Thiền tông. Muốn kiến tánh thành Phật trong trạng thái Không có ý thức, như vậy chúng ta là người Việt Nam mà tu thiền của Trung Quốc chứ đâu phải tu thiền của Việt Nam, hoàn toàn chúng ta đâu có tu thiền Việt Nam.

(54:20) Nhưng có may mắn là người Việt Nam cũng sáng suốt, các con có nghe Thiền Trúc Lâm Yên Tử không? Trần Nhân Tông, Người thấy rõ ràng là dân tộc Việt Nam mà luôn luôn chịu ảnh hưởng văn hóa, đạo đức, mê tín của Trung Quốc. Chứ dân tộc Việt Nam đâu phải là không có văn hóa, đạo đức của nó, thế mà các thầy, các sư đều theo cái tinh thần văn hóa của Trung Quốc mà tu tập. Thiền tông cũng vậy chứ. Cho nên ngài Trần Nhân Tông ngài tư duy suy nghĩ cho nên ngài kết hợp giữa tịnh và thiền để trở thành pháp môn Thiền tông Việt Nam, thành lập Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng nó vẫn là hai cái phái của Trung Hoa, hai cái phái thiền của Trung Hoa, Tịnh Độ và Thiền Tông của Trung Hoa kết hợp lại thành Thiền tông Việt Nam, chứ thiền Việt Nam chưa có. Đó là cũng may mắn lắm, Trần Nhân Tông là người cũng sáng suốt lắm, chứ còn không khéo thì chúng ta đâu có. Thiền thì cứ thiền, Tịnh thì cứ tịnh thôi, chứ chúng ta đâu biết kết hợp, còn ngài biết kết hợp. Trung Quốc không biết kết hợp mấy con mà nó đưa qua Việt Nam, chúng ta lấy của nó kết hợp lại làm của Việt Nam, đó là Thiền tông Việt Nam.

(55:57) Nhưng như vậy cũng chưa đủ duyên, người Việt Nam phải có con đường tu tập của người Việt Nam chứ không thể chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Bởi vì người Việt Nam chúng ta có nền văn hóa, đạo đức của dân tộc chứ đâu phải là chúng ta luôn lúc nào cũng chịu ảnh hưởng. Nhưng trong cái văn hóa, đạo đức của chúng ta cũng có những điều mê tín chớ, ông bà chúng ta truyền lại thờ cúng cũng có điều mê tín trong đó chớ. Nhưng chúng ta là những con cháu sau này, có đủ tri kiến phải dập xuống những cái điều mê tín để xây dựng một cái nền Đạo Đức thật sự của Dân tộc Việt Nam của chúng ta, để làm sáng tỏ con đường tu tập của nó bằng những lời của Đức Phật dạy.


359-PHẬT BỎ CÁC LOẠI THIỀN NGOẠI ĐẠO

 

359-PHẬT BỎ CÁC LOẠI THIỀN NGOẠI ĐẠO

(02:17:06) Các định tưởng từ Không Vô Biên Xứ Tưởng, cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đều là thiền của ngoại đạọ, do ức chế mà đi vào các loại tưởng này. Không phải đạo Phật không nhập được các Tưởng này. Khi mà chúng ta có được Định Như ý Túc rồi, chúng ta muốn nhập định nào ta cũng nhập được, nhập vào trong định tưởng một cách dễ dàng, không khó. Bởi vì ý thức của chúng ta diệt tất cả điều kiện cần thiết để vào cái định đó, thì nó sẽ vào được. Cho nên Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ, Phi Tưởng Phi Phi tưởng xứ, Diệt Thọ Tưởng Định, nó điều nhập được. Khi nhập Tứ Thiền được thì nhập vào được các loại định của ngoại đạo một cách rất dễ dàng.

Như mấy con đọc lại lịch sử của đức Phật, khi đức Phật tu theo ngoại đạo, nhập Không Vô Biên Xứ. Vị ngoại đạo đó dạy đức Phật nhập một cách dễ dàng. Một vị khách dạy nhập vô Phi Phi Tưởng Xứ, đức Phật nhập được như thường. Nhưng xét lại tâm tham - sân - si vẫn còn, nên đức Phật bỏ ba cái pháp ngoại đạo này.


358-THẦY NÓI VỀ ĐẠI THỪA VÀ LỤC SƯ NGOẠI ĐẠO

 

358-THẦY NÓI VỀ ĐẠI THỪA VÀ LỤC SƯ NGOẠI ĐẠO

(54:11) Phật tử 1: Là gọi.. chắc là hỏi hết đủ thứ..cái câu..

Phật tử khác: Đầy đủ hết rồi chỉ có cái này nó hơi thắc mắc nhưng mà..

Trưởng lão: Cái gì? Nói đi.

Phật tử 1: Cái chỗ này tại vì ảnh nói trong cái cái phần thứ tư là số bốn của Những Lời Gốc Phật Dạy đó. Ở cái bài Tánh biết trang 271.

Phật tử 2: Cái này hôm bữa có trình với Thầy rồi.

Phật tử 1: À! Vậy hả?

Phật tử 2: Tức là trong này có sai sót chút xíu mà mình sợ người khác ngoại đạo nó đọc vô rồi lại phê phán sách Thầy. Tức là trong đó thì có đoạn Thầy viết là “Chúng ta thấy đức Phật đã xác định rất rõ ràng. Ngài phủ nhận Kinh sách Đại Thừa nói những điều không đúng sự thật”.

Trưởng lão: Ừ!

Phật tử: Thì đúng ra là cái chỗ này là..

Phật tử khác: Cái chỗ này sửa lại “ngoại đạo”

Phật tử: Là “Ngài phủ nhận Kinh sách ngoại đạo” thì chính xác hơn phải không Thầy? Tại vì thời đức Phật chưa có Đại Thừa?

Trưởng lão: Chưa có Đại Thừa nhưng mà Đại Thừa có. Nó trong thời đức Phật nó có. Nó có sáu Lục Sư Ngoại Đạo. Mà chính cái đó nó mới sau này nó là Đại Thừa. Rồi sau này là Trung Hoa nó triển khai cái tri kiến đó. Cái hiểu biết đó nó thành ra Đại Thừa, Lục Sư Ngoại Đạo. Lục Sư Ngoại Đạo nó dựng ba mươi ba cõi trời, cho nên đức Phật…​

Phật tử: Nhưng mà hiện nay mọi người đều hiểu Đại Thừa là là của Trung Quốc.

Trưởng lão: Thì mà Trung Quốc nó dựa vào Lục Sư Ngoại Đạo này mà nó vẽ ra.

Phật tử: Dạ! Mà hồi thời đức Phật thì là chưa có, chỉ có Lục Sư Ngoại Đạo thôi.

Trưởng lão: Lục Sư Ngoại Đạo.

Phật tử 1: Thì cho nên lúc là “Ngài phủ nhận Kinh sách ngoại đạo” thì người ta dễ hiểu hơn ha Thầy.

Phật tử 2: Hay là để để luôn chữ Lục Sư Ngoại Đạo đi.

Phật tử 3: Lục Sư Ngoại Đạo rồi mở ngoặc Đại Thừa vậy thì, tại vì Lục Sư Ngoại Đạo giống như tổ tiên của Đại Thừa.

Trưởng lão: (nghe không rõ)

Phật tử 1: Không cái này là trong sách đã in rồi mà mình sợ nhiều khi những cái người khác người ta đọc vô cái người ta chống đối (nghe không rõ). Thời đức Phật làm gì có Đại Thừa mà đây nói Đại Thừa.

(56:01) Trưởng lão: À! Bây giờ mấy người không hiểu Đại Thừa. Người ta nói tư tưởng của Đại Thừa thì nó là Lục Sư Ngoại Đạo, tổ tiên của của Đại Thừa

Phật tử 1: Thì bây giờ mình sửa lại Lục Sư Ngoại Đạo

Phật tử 2: Dạ Kính thưa Trưởng lão trong cái này con xin phép con..

Trưởng lão: À! Tại vì mấy người không truy, không đọc lịch sử của đức Phật coi có không? Đức Phật đi ra đời để đi tu đều phải theo Lục Sư Ngoại Đạo tu. Nhưng mà cuối cùng Lục Sư Ngoại Đạo dạy tu không có làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Cho nên đức Phật mới bỏ, mới đi tìm đến cội Bồ Đề, mới ngồi tu để làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Sau khi ngồi tu chứng được rồi thì đức Phật mới xóa sổ mấy cái ông Lục Sư Ngoại Đạo này hết xuống. “Ba mươi ba cõi trời tưởng tri chứ không phải liễu tri”. Trời! Mấy ông lục Sư Ngoại Đạo này xanh máu mặt hết. Hồi nào xây dựng cái thế giới siêu hình, cũng như bây giờ Đại Thừa xây dựng cái thế giới Cực Lạc. Có phải không? Thầy dập xuống tan nát hết. Giỏi niệm Phật đi, cầu Phật Di Đà cứu mấy người đi. Phật tưởng mà cứu cái gì? Đó là cái chớ. Mà trong khi đức Phật tu xong rồi thì đức Phật làm chủ. Bây giờ nói sao cũng không sợ tội lỗi hết. Chớ còn hồi mà tu chưa chứng nói bậy tội chết.

Phật tử: Chị Cúc chị đề chữ Lục Sư Ngoại Đạo mở ngoặc Đại Thừa tại vì Thầy đã ghi cái chữ Đại Thừa rồi, chị để Lục Sư Ngoại Đạo trước mới đúng. Cũng như Tổ tiên đẻ ra cái Đại Thừa chớ. Cái gốc Tổ tiên.

Phật tử 1: Con xin lỗi Thầy. Con quên tắt máy.

Phật tử 2: Quên, quên tắt máy

Trưởng lão: Không sao đâu con.

Phật tử: (57:31) Đúng rồi. Vậy con nghĩ như vậy được hả Thầy?

Trưởng lão: Thì đó. Thì cách thức nó biểu mình dịch đó.

Phật tử: Hồi nãy giờ em ngồi em nghiệm ra; chị em mình bị vướng cái nguyên tắc. Mà cái nguyên tắc là cái sở kiến tri học của chị em mình. Mình đọc vô. Còn qua quá trình Thầy làm sách là Thầy uyển chuyển, tức là tùy, uyển chuyển tùy, ví dụ cũng lúc đó mà uyển chuyển. Còn chị em mình bị vướng vô ví dụ mình thấy dấu chấm ở đó mình chịu không được, mình thấy dấu phẩy ở đó mình chịu không được. Chị thấy hông?

Phật tử 1: Phải không Thầy?

(57:57) Trưởng lão: Ừ (Thầy cười). Còn dính mắc.

Phật tử 1: Cũng cũng như là con nói con gởi sách Thầy đi phát hành, cái con nói bây giờ cái này là gởi chứ không phải phát, không có phát tùm lum. Nhưng mà ai hữu duyên mà đến mà cầm được quyển sách đó thì là biếu chứ không cho. Nhưng mà tụi con không đi phát. Nhưng mà vui lòng viết lại tên tuổi. Cái con bị vướng rồi.


664- KINH ĐỊA TẠNG

  664- KINH ĐỊA TẠNG (01:23:39)  Phật tử  7: Kính bạch Thầy! Con xin hỏi, khi thân người vừa mới mất thì sẽ thác sanh vào một cõi lành hoặc ...